MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Wednesday, January 30, 2013

Afghan War Commander Gives Options for After ’14 Chỉ huy chiến trường Afghanistan đệ trình các lựa chọn cho hậu 2014






Afghan War Commander Gives Options for After ’14

Chỉ huy chiến trường Afghanistan đệ trình các lựa chọn cho hậu 2014

By ELISABETH BUMILLER and ERIC SCHMITT
January 2, 2013

ELISABETH BUMILLER và ERIC Schmitt
02 tháng một năm 2013

WASHINGTON — Gen. John R. Allen, the senior American commander in Afghanistan, has submitted military options to the Pentagon that would keep 6,000 to 20,000 American troops in Afghanistan after 2014, defense officials said on Wednesday.

WASHINGTON - Tướng John R. Allen, chỉ huy cấp cao của Mỹ tại Afghanistan, đã trình lên Lầu Năm Góc các lựa chọn quân sự sẽ giữ 6.000 đến 20.000 quân Mỹ ở Afghanistan sau năm 2014, các quan chức quốc phòng cho biết.

General Allen offered Defense Secretary Leon E. Panetta three plans with different troop levels: 6,000, 10,000 and 20,000, each with a risk factor probably attached to it, a senior military official said. An option of 6,000 troops would probably pose a higher risk of failure for the American effort in Afghanistan, 10,000 would be medium risk and 20,000 would be lower risk, the official said.

Tướng Allen đề nghị Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon E. Panetta ba kế hoạch với mức quân nhân khác nhau: 6.000, 10.000 và 20.000, mỗi mức với một yếu tố nguy cơ có thể gắn liền với nó, một quan chức quân sự cấp cao cho biết. Tùy chọn 6.000 quân có lẽ sẽ đặt ra một nguy cơ thất bại cho các nỗ lực của Mỹ ở Afghanistan, 10.000 sẽ là nguy cơ trung bình và 20.000 sẽ có nguy cơ thấp, quan chức này nói.

But the official, who spoke on the condition of anonymity because he was not authorized to discuss the options, said that a more important factor in the success of any post-2014 American mission was how well — or whether — an Afghan government known for corruption could deliver basic services to the population.

Tuy nhiên, viên chức này, người đã phát biểu với điều kiện giấu tên vì ông không có thẩm quyền để thảo luận về các tùy chọn, cho biết, một yếu tố quan trọng hơn trong sự thành công của bất kỳ nhiệm vụ hậu-2014 nào của Mỹ là liệu một chính phủ Afghanistan vốn nổi tiếng về tham nhũng có thể cung cấp các dịch vụ cơ bản cho người dân được hay không và tốt tới mức nào.

General Allen’s options offer ascending levels of American involvement in guarding against the expansion of terrorist groups in Afghanistan and advising an Afghan military that has limited air power, logistics, leadership and ability to evacuate and treat its wounded.


Các tùy chọn của Tướng Allen cung cấp mức độ tăng dần về sự tham gia của Mỹ trong việc bảo vệ chống lại việc mở rộng của các nhóm khủng bố tại Afghanistan và tư vấn cho một quân đội Afghanistan vốn có giới hạn về sức mạnh không quân, hậu cần, lãnh đạo và khả năng sơ tán và điều trị binh sĩ bị thương.

With 6,000 troops, defense officials said, the American mission would largely be a counterterrorism fight of Special Operations commandos who would hunt down insurgents. There would be limited logistical support and training for Afghan security forces. With 10,000 troops, the United States would expand training of Afghan security forces. With 20,000 troops, the Obama administration would add some conventional Army forces to patrol in limited areas.


Với 6.000 quân, các quan chức quốc phòng cho biết, sứ mệnh của Mỹ phần lớn sẽ là một cuộc chiến chống khủng bố với các hoạt động biệt kích để săn lùng các phần tử nổi dậy. Sẽ có hạn chế hỗ trợ hậu cần và đào tạo cho các lực lượng an ninh Afghanistan. Với 10.000 quân, Hoa Kỳ sẽ mở rộng đào tạo các lực lượng an ninh Afghanistan. Với 20.000 quân, chính quyền Obama sẽ có thêm một số lực lượng quân đội thông thường để tuần tra trong khu vực giới hạn.

Defense officials said it was unclear whether President Obama had studied the options, although they said he was expected to discuss them at the White House next week when President Hamid Karzai of Afghanistan visits. About 66,000 American troops are now in Afghanistan.


Các quan chức quốc phòng cho biết không rõ liệu Tổng thống Obama đã nghiên cứu các tùy chọn hay chưa, mặc dù họ cho biết ông dự kiến ​​sẽ thảo luận tại Nhà Trắng vào tuần tới khi Tổng thống Hamid Karzai của Afghanistan viếng thăm. Hiện có khoảng 66.000 binh sĩ Mỹ tại Afghanistan.


Under an agreement between NATO and the Afghan government, the NATO combat mission in Afghanistan is to end on Dec. 31, 2014, when the Afghan Army and the police are to have full responsibility for their country’s security. But in recent months the Obama administration has been debating the size and mission of a residual American force that would remain after 2014 to increase Afghan stability.


Theo một thỏa thuận giữa NATO và chính phủ Afghanistan, sứ mệnh chiến đấu của NATO tại Afghanistan là kết thúc vào ngày 31 Tháng Mười Hai, 2014, khi quân đội và cảnh sát Afghanistan có trách nhiệm hoàn toàn đối với an ninh của đất nước của họ. Tuy nhiên, trong những tháng gần đây, chính quyền Obama đã tranh luận về kích thước và sứ mệnh của một lực lượng Mỹ còn ở lại sau khi năm 2014 để tăng cường ổn định cho Afghanistan.

The help is sorely needed, according to the most recent Pentagon report on the state of the 11-year-old war. In an assessment released last month that covers April through September 2012, the Pentagon found that only one of the Afghan Army’s 23 brigades was able to operate independently without air or other military support from the United States or its NATO partners.

Sự trợ giúp là vô cùng cần thiết, theo báo cáo gần đây nhất của Lầu Năm Góc về tình hình của cuộc chiến tranh 11 năm này cho biết. Trong một đánh giá công bố tháng trước đề cập từ tháng Tư đến tháng 9 năm 2012, Lầu Năm Góc phát hiện ra rằng chỉ có 23 lữ đoàn của quân đội Afghanistan đã có thể hoạt động độc lập mà không có hỗ trợ không lực hoặc hỗ trợ quân sự khác từ Hoa Kỳ hoặc các đối tác NATO.

Defense officials said that General Allen’s recommendations did not include options for the pace of withdrawals of the remaining 66,000 troops, although American officials say he wants to keep a large majority — perhaps as many as 60,000 — through the fighting season next fall.


Quan chức quốc phòng nói rằng đề nghị của Tướng Allen đã không bao gồm các tùy chọn cho tốc độ rút 66.000 binh lính còn lại, mặc dù các quan chức Mỹ nói rằng ông muốn giữ một đa số lớn - có lẽ nhiều đến 60.000 - cho các trận chiến mùa thu tới.

Military officials anticipate that the White House will push for a more rapid withdrawal.

Quan chức quân sự dự đoán rằng Nhà Trắng sẽ thúc đẩy việc rút quân nhanh hơn.

General Allen’s recommendations come as he and Mr. Panetta are soon due to leave their jobs. General Allen is to be replaced in February by Gen. Joseph F. Dunford Jr., and Mr. Panetta is expected to step down after Mr. Obama nominates a successor.

Khuyến nghị của Tướng Allen được đưa ra khi ông và ông Panetta sẽ sớm rời chức vụ. Tướng Allen sẽ được thay thế vào tháng Hai bởi tướng Joseph F. Dunford Jr, và ông Panetta dự kiến ​​sẽ thôi chức sau khi ông Obama đề cử người kế nhiệm.

General Allen, who is under investigation for a series of e-mails he exchanged with a socialite in Tampa, Fla., Jill Kelley, is to become the NATO supreme allied commander in Europe, but his nomination is delayed until the investigation concludes.

Tướng Allen, người đang được điều tra về một loạt các e-mail ông trao đổi với một nhân vật có ảnh hưởng ở Tampa, Florida, Jill Kelley, sẽ trở thành chỉ huy tối cao đồng minh NATO ở châu Âu, nhưng đề cử bị trì hoãn cho đến khi kết thúc điều tra.


Pentagon officials said Wednesday that he had long planned to leave Afghanistan in February and that the inquiry had not accelerated his departure.

Các quan chức Lầu Năm Góc cho biết rằng ông từ lâu đã lên kế hoạch rời khỏi Afghanistan vào tháng Hai và cuộc điều tra đã không tăng tốc ra đi của ông.
http://www.nytimes.com/2013/01/03/world/middleeast/afghan-war-commander-gives-options-for-after-2014.html?_r=0

10 PROBLEMS OBAMA COULD SOLVE RIGHT NOW MƯỜI VẤN ĐỀ OBAMA CÓ THỂ GIẢI QUYẾT NGAY BÂY GIỜ





10 PROBLEMS OBAMA COULD SOLVE RIGHT NOW
MƯỜI VẤN ĐỀ OBAMA CÓ THỂ GIẢI QUYẾT NGAY BÂY GIỜ

The Second Coming
What can the 44th president really achieve in his second term? Here are 10 ideas.

Nhiệm kỳ Hai
Tổng thống thứ 44 thực sự có thể làm được gì trong nhiệm kỳ thứ hai của mình? Dưới đây là 10 ý tưởng.


FOREIGN POLICY
JANUARY/FEBRUARY 2013

Tạp chí CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
Tháng Giêng / Tháng Hai 2013
If you were to print out all the white papers, op-eds, and think-tank reports urging U.S. President Barack Obama to do this or that in his second term, the sheer amount of paper produced would probably require chopping down the Amazon rain forest. There's a reason these well-intentioned ideas generally sit on the shelf: They're unrealistic. Wave a magic wand, and the president can do everything from make peace in the Middle East to reshape the entire world economy in America's favor. What follows is something different: advice he can actually implement.

Nếu bạn in ra giấy tất cả các bạch thư, ý kiến đọc giả, và các báo cáo của các think-tank (bồn trí tuệ, trí khố) thúc giục Tổng thống Mỹ Barack Obama nên làm điều này điều nọ trong nhiệm kỳ thứ hai của ông, thì để có lượng giấy phải sản xuất ra, có thể sẽ cần phải đốn trụi các rừng mưa Amazon. Có một lý do khiến những ý tưởng hảo ý này phải gác lên kệ: Chúng không thực tế. Chỉ vẫy một cây đũa thần là tổng thống có thể làm tất cả mọi thứ từ kiến tạo hòa bình ở Trung Đông đến định hình lại toàn bộ nền kinh tế thế giới có lợi cho Mỹ. Những điều sau đây có chút khác biệt: Những lời khuyên mà Tổng thống thực sự có thể thực hiện.

1. Jody Williams: Stop Using Land Mines and Cluster Munitions
2. George Papandreou: Save Greece, Save Europe
3. John Prendergast: Get Kony
4. Kenneth Roth: Dump These 8 Unsavory Allies
5. David E. Hoffman: Take the Nukes off Alert
6. Zbigniew Brzezinski: Get His Authority Back
7. Gal Luft: Kill the Oil Monopoly
8. Gernot Wagner: Cut Power Plant Pollution
9. Edward P. Joseph: Make a Trade Deal with Europe
10. Micah L. Sifry: Fix American Democracy
1. Jody Williams: Ngưng sử dụng mìn và bom chùm
2. George Papandreou: Cứu Hy Lạp, cứu Châu Âu
3. John Prendergast:  Nắm bắt Kony
4. Kenneth Roth: Loại bỏ 8 đồng minh không lành mạnh
5. David E. Hoffman: Cảnh báo về vũ khí hạt nhân
6. Zbigniew Brzezinski: Giành lại quyền uy
7. Gal Luft: Loại bỏ thế độc tôn của dầu mỏ
8. Gernot Wagner: Giảm ô nhiễm do nhà máy điện
9. Edward P. Joseph: Thực hiện thỏa thuận thương mại với châu Âu
10. Micah L. Sifry: Tinh chỉnh Dân chủ Mỹ

1. Jody Williams: Stop Using Land Mines and Cluster Munitions

1. Jody Williams: Ngưng sử dụng mìn và bom chùm



In 2009, U.S. President Barack Obama won the Nobel Peace Prize because, according to the committee, "His diplomacy is founded in the concept that those who are to lead the world must do so on the basis of values and attitudes that are shared by the majority of the world's population." In his second term, Obama must embrace that promise -- by taking steps to ensure that the United States is no longer an outlier when it comes to global agreements on peace and disarmament. He should start by sending the 1997 Mine Ban Treaty to the Senate for approval and by taking action to do away with America's own arsenal of mines, whether the Senate approves it or not.


Năm 2009, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã giành giải Nobel Hòa bình bởi vì, theo ủy ban Nobel, "Nền ngoại giao của ông được thành lập theo quan niệm cho rằng các nhà lãnh đạo thế giới phải hành động trên cơ sở các giá trị và thái độ được chia sẻ bởi các phần lớn nhân loại trên thế giới." Trong nhiệm kỳ thứ hai của mình, Obama phải giữ lời hứa bằng cách thực hiện các bước để đảm bảo rằng Hoa Kỳ không còn là kẻ hứa suông khi nói đến thỏa thuận toàn cầu về hòa bình và giải trừ quân bị. Ông nên bắt đầu bằng cách gửi Hiệp ước Cấm Mìn 1997 để Thượng viện phê duyệt và tiến hành loại bỏ kho vũ khí mìn của Mỹ, cho dù Thượng viện có chấp thuận hay không.

Obama was elected president in 2008 in part because of his sweeping calls to confront world problems that transcend borders. In his second term, what could be a stronger statement of support for multilateral diplomacy than joining the 161 countries -- including every other NATO country and every nation in the Western Hemisphere except Cuba -- already party to the Mine Ban Treaty? It's very doable.

Obama được bầu làm tổng thống năm 2008 một phần vì các lời gọi sâu rộng của ông để đương đầu với các vấn đề thế giới mà vượt qua biên giới. Trong nhiệm kỳ thứ hai của mình, cái có thể trở thành một tuyên bố mạnh mẽ hơn đẻ hỗ trợ ngoại giao đa phương chính là liên kết 161 quốc gia - bao gồm tất cả các quốc gia NATO khác và mọi quốc gia ở Tây bán cầu, ngoại trừ Cuba – làm thành viên của Hiệp ước Cấm Mìn? Điều này rất khả thi.

Indeed, it's hard to understand why Obama hasn't done so yet. The United States already follows most of the key provisions in the Mine Ban Treaty. It has not exported mines since 1992, hasn't produced them since the mid-1990s, has already begun destroying stockpiles, and has not used antipersonnel land mines in two decades. These weapons are a deadly legacy that should never be used again.

Thật vậy, thật khó hiểu được lý do tại sao Tổng thống Obama vẫn chưa làm điều đó. Hoa Kỳ đã tuân thủ hầu hết các quy định quan trọng trong Hiệp ước Cấm Mìn. Hoa Kỳ đã ngưng xuất khẩu mìn từ năm 1992, ngưng sản xuất kể từ giữa những năm 1990, đã bắt đầu phá hủy các kho dự trữ, và không sử dụng mìn sát thưõng trong hai thập kỷ qua. Những vũ khí này là một di sản chết người mà sẽ không bao giờ được sử dụng một lần nữa.

Antipersonnel land mines cannot discriminate among the footfall of a soldier, a child, a grandmother -- or an animal, for that matter. Once deployed, the mines remain lethal for generations, long outlasting any military need. With the end of fighting, virtually all land-mine casualties are civilians; hundreds of thousands of people have fallen victim to their scourge. And because they are both indiscriminate and disproportionate in their impact on civilians, they may be illegal under international law even without the Mine Ban Treaty, which completely prohibits the use, production, and stockpiling of such weapons.

Mìn sát thương không thể phân biệt được bước chân của một người lính, một đứa trẻ, bà già hoặc một con vật, đó chính là vấn đề. Một khi đã được gài, các quả mìn vẫn còn gây tử vong trong nhiều thế hệ, dài hơn bất kỳ nhu cầu quân sự nào. Khi kết thúc chiến trận, hầu như tất cả các thương vong do mìn đều là dân thường, hàng trăm ngàn người đã trở thành nạn nhân mà tai họa là mìn. Và vì mìn sát thương bừa bãi và chủ yếu là tác động lên thường dân, mìn có thể bị bất hợp pháp hóa theo quy định của pháp luật quốc tế ngay cả khi không có Hiệp ước Cấm Mìn, mà hoàn toàn nghiêm cấm việc sử dụng, sản xuất, và tàng trữ các loại vũ khí này.

The Obama administration announced a review of U.S. land-mine policy in late 2009, but has been slow to release the results. Still, there's reason to think ratification stands a good chance of passage in the Senate. In 2010, 68 senators -- more than the two-thirds majority needed to ratify the treaty -- wrote to the president urging him to support the global ban.

Chính quyền Obama đã công bố một đánh giá về chính sách mìn đất (địa lôi) của Mỹ vào cuối năm 2009, nhưng đã chậm chạp trong việc công bố kết quả. Tuy nhiên, có lý do để nghĩ việc phê chuẩn có  cơ hội được thông qua tại Thượng viện. Trong năm 2010, 68 thượng nghị sĩ - nhiều hơn so với đa số hai phần ba cần thiết để phê chuẩn hiệp ước - đã viết thư cho Tổng thống thúc giục ông ủng hộ lệnh cấm toàn cầu.

Even if the Senate fails to act, however, Obama can still fulfill the obligations of the treaty using the powers of the White House. The current U.S. position -- pending the now three-year-old review ordered by the president -- is to oppose "dumb mines," which can lie in wait for decades, but continue to support so-called "smart mines," which are meant to self-destruct or deactivate after a certain period. The problem is that smart mines are just as unable to distinguish between civilian and military targets, are not fail-safe, and pose an equal threat to innocent bystanders.

Tuy nhiên, ngay cả nếu Thượng viện không hành động, Obama vẫn có thể thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của hiệp ước này bằng cách sử dụng các quyền hạn của Nhà Trắng. Lập trường hiện tại của Mỹ - chờ xem xét ba năm theo lệnh của tổng thống - là chống "mìn câm", mà có thể nằm chờ nổ trong nhiều thập kỷ, nhưng tiếp tục hỗ trợ cái gọi là "mìn thông minh" có nghĩa là tự hủy hoặc không nổ nữa sau một khoảng thời gian nhất định. Vấn đề là mìn thông minh cũng không thể phân biệt được các mục tiêu dân sự với quân sự; chúng không an toàn, và đặt ra một mối đe dọa ngang bằng với người qua đường vô tội.

Without waiting for Senate action, Obama could extend the current U.S. prohibition to cover smart mines and accelerate the destruction of the U.S. mine arsenal, which once stood at more than 10 million mines. He could also release the number of mines that have been destroyed during his administration -- a figure that has not yet been made public. A mine-ban policy in accordance with international law and Senate ratification would remain the goal, but there's no reason to wait.

Mà không cần chờ Thượng viện hành động, Obama có thể mở rộng lệnh cấm hiện thời của Mỹ để bao gồm cả mìn thông minh và đẩy nhanh việc phá hủy các kho mìn của Mỹ, mà đang ở mức hơn 10 triệu quả. Tổng thống cũng có thể công bố số lượng mìn đã bị phá hủy trong thời gian ông cầm quyền - một con số mà chưa được công bố. Một chính sách cấm mìn phù hợp với luật pháp quốc tế và Thượng viện phê chuẩn sẽ vẫn là mục tiêu, nhưng không có lý do gì phải chờ đợi.

Beyond land mines, the president could begin to rid the world of another senseless danger: cluster munitions. These large weapons are deployed from the air or the ground, and they release dozens or even hundreds of smaller explosive submunitions, putting civilians at far greater risk than from conventional explosives. Children have been known to mistake them for toys. Obama should order an immediate review of cluster-munitions policy, with a mind to joining the 2008 international convention banning cluster munitions. The United States already plans to ban all but a tiny fraction of its cluster-munition arsenal by 2018 under a policy announced by the Pentagon in 2008. Why not simply eliminate them all now?

Ngoài mìn đất, Tổng thống có thể bắt đầu để thế giới thoát khỏi mối nguy hiểm vô nghĩa: bom chùm. Những vũ khí lớn này được triển khai từ không trung hoặc mặt đất, và chúng bung ra hàng chục hoặc thậm chí hàng trăm quả bom nổ nhỏ hơn, đặt dân thường có nguy cơ lớn hơn nhiều hơn so với chất nổ thông thường. Người ta biết rằng trẻ em đã nhầm lẫn chúng với đồ chơi. Obama nên ra lệnh đánh giá trực tiếp chính sách bom chùm, lưu tâm tham gia hội nghị quốc tế năm 2008 về cấm bom chùm. Hoa Kỳ đã có kế hoạch cấm tất cả trừ một phần nhỏ kho vũ khí đạn bom chùm vào năm 2018, theo chính sách của Lầu Năm Góc công bố năm 2008. Tại sao không đơn giản là loại bỏ tất cả ngay bây giờ?

Despite some promising steps toward ridding the world of deadly weapons, like the president's nuclear arms treaty with Russia, his first term was, unfortunately, defined more by the dramatic increase in the use of drones and the ongoing development of a lethal new category of conventional weapons -- completely autonomous robotic weapons -- than by the elimination of threats to humanity.

Mặc dù đã có một số bước đi đầy hứa hẹn về hướng giúp thế giới thoát khỏi vũ khí chết người, như hiệp ước của tổng thống về vũ khí hạt nhân với Nga, nhưng, không may là nhiệm kỳ đầu tiên được xác định bởi sự gia tăng đáng kể việc sử dụng máy bay không người lái và phát triển liên tục một thể loại vũ khí thông thường gây chết người mới - vũ khí robot tự động hoàn toàn - nhiều hơn là loại bỏ các mối đe dọa cho nhân loại.

Obama began his first term by receiving a prize he did not yet deserve. By finally making land mines history, he can start his second four years by beginning to earn it.


Obama bắt đầu nhiệm kỳ đầu tiên của mình bằng cách nhận một giải thưởng mà ông chưa xứng đáng. Bằng cách cuối cùng làm cho mìn đất trở thành lịch sử, ông có thể bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của mình với việc bắt đầu làm cho ông xứng đáng với giải thưởng đó.


Jody Williams, founding coordinator of the International Campaign to Ban Landmines, was awarded the Nobel Peace Prize in 1997.

Jody Williams, điều phối viên sáng lập Chiến dịch Quốc tế cấm mìn, đã được trao giải Nobel Hòa bình vào năm 1997.

Next: George Papandreou on why Obama should save Greece and Europe.

Tiếp theo: George Papandreou bàn về lý do tại sao Obama nên cứu Hy Lạp và châu Âu.





2. George Papandreou: Save Greece, Save Europe

2. George Papandreou: Cứu Hy Lạp, cứu Châu Âu

During a different era of American leadership on the European continent, U.S. diplomats and dollars midwifed an audacious political project, one that sought to end war and usher in prosperity. With Soviet tanks looming across the Iron Curtain, European prosperity would prevent the spread of communism and balance Soviet power in the East. The fruits of this project would primarily be economic, but its basis was firmly political -- a broadly accepted consensus that European wars must be brought to an end and that the horrors of World War II must never be revisited. This was an idealism tempered by Cold War logic, and it was the greatest triumph in American 20th-century diplomacy. Today, that European project finds itself under threat, and the moment requires a return of American leadership. Only Europe can lead the way out of this crisis, but in his second term, President Obama needs to help save Europe from itself.


Trong một thời kỳ Mỹ lãnh đạo khác trên lục địa châu Âu, các nhà ngoại giao và đô la Mỹ đã đở đẻ cho một dự án chính trị táo bạo, tìm cách chấm dứt chiến tranh và mở ra sự thịnh vượng. Với xe tăng Liên Xô hiện ra lờ mờ sau Bức Màn Sắt, sự thịnh vượng của châu Âu sẽ ngăn chặn sự lây lan của chủ nghĩa cộng sản và cân bằng quyền lực của Liên Xô ở phía Đông. Các loại thành quả của dự án này chủ yếu sẽ là kinh tế, nhưng cơ sở của nó là sự vững chắc về chính trị - một sự đồng thuận được chấp nhận rộng rãi cho rằng các cuộc chiến tranh châu Âu phải được kết thúc và những kinh hoàng của chiến tranh thế giới thứ II không bao giờ phải lập lại. Đây là một lý tưởng được tôi luyện bởi logic chiến tranh lạnh, và đó là chiến thắng lớn nhất trong ngoại giao thế kỷ 20 của Mỹ. Ngày hôm nay, dự án châu Âu đã tự thấy mình bị đe dọa, và thời điểm này đòi hỏi một sự trở lại của lãnh đạo của Mỹ. Bản thân Châu Âu có thể tìm đường thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng này, nhưng trong nhiệm kỳ thứ hai của mình, Tổng thống Obama cần giúp châu Âu ra tự giải thoát.

The first step has to be saving Greece. Time and again, my country has pledged fealty to the prevailing European doctrine of harsh austerity, but for the world bond markets, it seems, we can never cut deeply enough. The reason is a crisis of confidence: Prevailing uncertainty over whether Greece will remain in the eurozone has crippled our economy, eliminating the prospect of any business activity until the problem is solved -- thus almost guaranteeing that it never is. Europe has to say, "The crisis ends here. Greece is part of the eurozone, full stop."

Bước đầu tiên phải là cứu Hy Lạp. Nhiều lần, đất nước tôi đã cam kết trung thành với học thuyết châu Âu hiện hành về thắt lưng buộc bụng khắc nghiệt, nhưng đối với thị trường trái phiếu thế giới, có vẻ như, chúng tôi không bao giờ có thể cắt giảm đủ sâu. Lý do là khủng hoảng niềm tin: Sự không chắc chắn hiện hành về việc liệu Hy Lạp sẽ vẫn ở trong khu vực đồng tiền chung châu Âu hya không đã làm tê liệt nền kinh tế của chúng tôi, loại bỏ các khách hàng tiềm năng của bất kỳ hoạt động kinh doanh cho đến khi vấn đề được giải quyết - do đó gần như chắc chắn rằng nó không bao giờ được giải quyết. Châu Âu phải nói, "Cuộc khủng hoảng này kết thúc ở đây. Hy Lạp là một phần của khu vực đồng tiền chung châu Âu. Chấm hết"


To make such a declaration credible, however, it needs the backing of the world's largest and still most dynamic economy. Here's where Obama comes in. The U.S. president can help solve the European crisis with the kind of deft economic diplomacy that has admittedly eluded his administration to date.

Tuy nhiên, để làm cho một tuyên bố như vậy đáng tin cậy, nó cần sự ủng hộ của nền kinh tế lớn nhất và vẫn còn năng động nhất của thế giới. Đây là lúc ông Obama can thiệp. Tổng thống Mỹ có thể giúp giải quyết cuộc khủng hoảng châu Âu với kiểu ngoại giao kinh tế khéo léo mà mọi người thừa nhận chính quyền của ông  vẫn còn lảng tránh cho đến nay.


America's greatest successes in Europe have mostly been projects of integration, from supporting the creation of the European Union to the reunification of Germany. Reclaiming that mantle requires that Obama and his diplomats publicly declare their faith in a more integrated Europe. Above all, Obama must remind the German people of how the United States stood by Germany not only throughout the Cold War, but through the tumultuous decade that followed the fall of the Berlin Wall and the collapse of the Soviet Union. And he must persuade German Chancellor Angela Merkel to do whatever it takes to make Europe work -- and assure her that the American people will once again help.

Thành công lớn nhất của Mỹ ở châu Âu chủ yếu là các dự án hội nhập, từ hỗ trợ thành lập Liên minh châu Âu đến thống nhất nước Đức. Tái khẳng định những hỗ trợ như thế đòi hỏi Tổng thống Obama và các nhà ngoại giao của ông công khai tuyên bố niềm tin của họ vào một châu Âu hòa nhập hơn. Trước hết, Obama phải nhắc nhở người dân Đức nhớ lại Hoa Kỳ đã hậu thuẫn nước Đức không chỉ trong thời Chiến tranh Lạnh, mà cả trong thập kỷ đầy biến động tiếp theo sau khi Bức tường Berlin và Liên Xô sụp đổ. Và ông phải thuyết phục thủ tướng Đức Angela Merkel làm bất cứ điều gì cần thiết để vận hành châu Âu - và đảm bảo với bà thủ tướng ấy rằng người dân Mỹ lại một lần nữa sẽ giúp đỡ.

Obama's team, led by the Treasury Department, has urged Europeans to take decisive steps, from funding infrastructure projects to collectivizing debt, to restore growth to sagging European economies. European leaders have rebuffed those entreaties, viewing the Americans as hypocritical for exporting their financial crisis to Europe while also telling European officials how they should respond to it -- without bringing any of their own still-considerable resources to bear.

Nhóm nghiên cứu của Obama, do Bộ Tài chính Mỹ lãnh đạo, đã kêu gọi châu Âu thực hiện các bước quyết định, từ tài trợ các dự án cơ sở hạ tầng cho tới thu nợ, phục hồi tăng trưởng nền kinh tế châu Âu đang suy trầm. Các nhà lãnh đạo châu Âu đã cự tuyệt những lời khẩn nài đó, xem người Mỹ là đạo đức giả vì đã cho xuất khẩu khủng hoảng tài chính của họ sang châu Âu, trong khi cũng nói với các quan chức châu Âu họ nên đối phó với nó thế nào - mà không mang bất kỳ nguồn lực hãy còn đáng kể nào của họ ra gánh đỡ.


We're not asking for handouts. Along with an end to the uncertainty that is crippling our economy, what Greece needs most of all is investment: investment in a Greece that is changing and in a Greece that has great potential.


Chúng tôi không xin cấp phát những bài chỉ dẫn. Cùng với việc kết thúc sự không chắc chắn mà đã làm tê liệt nền kinh tế của chúng tôi, cái mà Hy Lạp cần hơn cả là đầu tư: đầu tư vào một Hy Lạp đang thay đổi và một Hy Lạp có tiềm năng to lớn.


And it's not just Greece. From Southern Europe to North Africa, the Mediterranean basin, a part of the world that is critical to U.S. national security, is in transition. Obama could dispatch high-level business delegations, sending a powerful message about the region's investment opportunities. But Obama could set his sights even higher. One of his predecessors, Dwight Eisenhower, famously said, "If a problem cannot be solved, enlarge it." So it is with us: Obama should throw his weight behind a major energy, diplomatic, and peace initiative linking the Middle East, the Mediterranean, and Europe through energy cooperation. That effort could include both existing and recently discovered conventional resources, but would also target investment in a new grid for clean, renewable energy -- one of the Mediterranean's most plentiful, yet largely untapped, resources. Such a "Green Marshall Plan" would be important not just in economic terms, but also in its potential to support and expand democracy. What is needed most of all is the vision.


Và nó không chỉ là Hy Lạp. Từ Nam Âu đến Bắc Phi, lưu vực Địa Trung Hải, là một phần của thế giới quan trọng đối với an ninh quốc gia của Mỹ, đang trong quá trình chuyển đổi. Obama có thể cử các đoàn doanh nghiệp cấp cao, gửi một thông điệp mạnh mẽ về các cơ hội đầu tư của khu vực này. Tuy nhiên, Obama có thể nâng tầm nhìn thậm chí cao hơn. Một trong những người tiền nhiệm của ông, Dwight Eisenhower, nổi tiếng đã nói: "Nếu một vấn đề không thể giải quyết được, hãy khai triển nó." Điều đó cũng đúng đối với chúng tôi: Obama nên đặt sức nặng của mình đằng sau một sáng kiến năng lượng, ngoại giao, và ​​hòa bình quan trọng kết nối Trung Đông, Địa Trung Hải, và Châu Âu thông qua hợp tác năng lượng. Nỗ lực đó có thể bao gồm không chỉ các nguồn tài nguyên thông thường hiện tại và phát hiện gần đây, mà còn nhằm mục tiêu đầu vào một mạng lưới mới về năng lượng sạch và năng lượng tái tạo - một trong ngững nguồn tài nguyên phong phú nhất của Địa Trung Hải, nhưng phần lớn chưa được khai thác. Một "Kế hoạch Marshall Xanh" như thế sẽ rất quan trọng không chỉ về mặt kinh tế, mà trong tiềm năng của nó còn để hỗ trợ và mở rộng dân chủ. Cái cần thiết nhất trong tất cả lại là tầm nhìn.

Finally, to help revitalize a country that has a deep history with the United States, a visit to Greece, in support of the Greek people's potential, would be a true vote of confidence in Greece and Europe's capacity to resolve the eurocrisis.


Cuối cùng, để giúp đem lại sức sống mới một quốc gia có một lịch sử sâu nặng với Hoa Kỳ, một chuyến thăm Hy Lạp, hỗ trợ tiềm năng người Hy Lạp, sẽ là một cuộc bỏ phiếu thực sự của niềm tin vào Hy Lạp và năng lực của châu Âu để giải quyết khủng hoảng Châu Âu.


Obama is fond of invoking the grand sweep of history. He wants to be remembered as a consequential president. What better way to secure his legacy than to hitch it to the Democrats who began the European project: FDR, Truman, and Kennedy?


Obama thích tạo ra cơn lũ quét lớn của lịch sử. Ông muốn được nhớ đến như một tổng thống có thành tựu. Có cách thức nào tốt hơn để bảo vệ di sản của ông hơn là để nó vào tay những người Dân chủ mà đã bắt đầu dự án châu Âu: Tổng thống Roosevelt, Truman, và Kennedy hay không?


George Papandreou is former prime minister of Greece.
George Papandreou là cựu thủ tướng Hy Lạp.






3. John Prendergast: Get Kony

3. John Prendergast: Bắt Kony

Before "Gangnam Style," there was the viral Kony 2012 video, which made Lord's Resistance Army (LRA) leader Joseph Kony the world's best-known international war criminal overnight. But the man himself remains at large in the jungles of Central Africa. The human toll mounts as children continue to be press-ganged by Kony's followers into service as soldiers, porters, and sex slaves. The LRA's strength may be a fraction of what it was a decade ago, but with reports of increased support from the group's longtime friend, the Sudanese government, the LRA still poses a major threat not only to civilians but, if Khartoum's support grows, to the overall stability of the four countries where the LRA has conducted attacks. If President Obama wants to make the world a better place and burnish his legacy, then apprehending Kony -- a man believed to be responsible for the forced conscription of tens of thousands of kids -- would be a good start. This is a winnable war, and if the United States, regional governments, and others build on the momentum already established, the LRA could be history by the end of 2013.

Trước khi có điệu nhảy "Gangnam" đã lưu hành rông rãi video Kony năm 2012, mà chỉ sau một đêm đã làm lãnh đạo Joseph Kony của đội Quân Kháng Chiến của Thượng đế (LRA) trở thành tội phạm chiến tranh nổi tiếng nhất thế giới. Tuy nhiên, nhân vật này vẫn còn nhởn nhơ trong rừng rậm Trung Phi. Con số ngày càng tăng các trẻ em tiếp tục bị đàn em của Kony bắt ép làm các dịch vụ như làm lính, dân công, và nô lệ tình dục. Sức mạnh của LRA chỉ có thể bằng một phần nhỏ sức mạnh vồn có của nó cách đây một thập kỷ, nhưng với các báo cáo về hỗ trợ gia tăng từ người bạn lâu năm của nhóm này, chính phủ Sudan, thì LRA vẫn còn là một mối đe dọa lớn không chỉ đối với dân thường mà, nếu hỗ trợ của Khartoum phát triển, còn đe dọa sự ổn định chung của bốn quốc gia nơi LRA tiến hành các cuộc tấn công. Nếu Tổng thống Obama muốn làm cho thế giới trở thành một nơi tốt hơn và đánh bóng di sản của ông, thì việc truy bắt Kony - một người được cho là chịu trách nhiệm về cưỡng bức quân dịch đối với hàng chục hàng ngàn trẻ em - sẽ là một khởi đầu tốt. Đây là một cuộc chiến tranh có thể thắng, và nếu Hoa Kỳ, các chính phủ trong khu vực, và những chính phủ khác xây đắp thêm đông lực đã có sẵn, thì LRA có thể trở thành quá khứ vào cuối năm 2013.

But getting the job done in the president's second term will take more than publicity. It will take an enhanced strategy.

Tuy nhiên, thực hiện công việc này trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống sẽ mất nhiều công sức hơn là chỉ tuyên bố công khai. Nó đòi hỏi một chiến lược tăng cường.

So far, efforts against the LRA have been inadequate. One problem is that they have been led by the Ugandan army (whose own human rights record is complicated); although the United States deployed 100 military advisors to assist the Ugandans, these troops are not authorized to fight the LRA. Other regional countries have made token contributions to the effort, which recently came under the African Union (AU) umbrella. But the AU has so far mustered only 3,000 of its intended 5,000 deployed troops, and too few Ugandan soldiers are in too wide an area without adequate air transport, human intelligence networks, or physical access to where the LRA actually is. While the LRA operates in a vast area equivalent to the size of Arizona, the Ugandan army is deployed in a much smaller area the size of West Virginia. Besides, interviews the Enough Project conducted with civilians from the area as well as with former LRA combatants suggest that the Sudanese government is allowing Kony a base and haven in South Darfur.

Cho đến nay, những nỗ lực chống lại LRA vẫn chưa đầy đủ. Một vấn đề là những nỗ lực này được chỉ huy bởi quân đội Uganda (mà hồ sơ nhân quyền của quân dội này lại rất phức tạp), mặc dù Hoa Kỳ triển khai 100 cố vấn quân sự để hỗ trợ người dân Uganda, những lính Mỹ này không được uỷ quyền để chống lại LRA. Các quốc gia khác trong khu vực đã đóng góp tượng trưng vào các nỗ lực này, mà gần đây đặt dưới sự bảo trợ của Liên minh châu Phi (AU). Nhưng AU cho đến nay đã tập trung chỉ có 3.000 trong số ​​khoảng 5.000 binh sĩ dự kiến triển khai, và quá ít binh sĩ Uganda trong khu vực quá rộng mà không có vận chuyển hàng không, mạng lưới nhân viên tình báo, hoặc tiếp cận đầy đủ đến nơi mà LRA thực sự có mặt. Trong khi LRA hoạt động trong một khu vực rộng lớn tương đương với kích thước của Arizona, quân đội Uganda được triển khai trong một khu vực nhỏ hơn nhiều, bằng kích thước của West Virginia. Bên cạnh đó, các cuộc phỏng vấn mà Enough Project thực hiện với các thường dân từ khu vực này cũng như với các cựu binh LRA cho thấy rằng chính phủ Sudan cho phép Kony lập căn cứ và nơi trú ẩn ở Nam Darfur.

Here are three things Obama and his team can do to really bring Kony to justice:

Dưới đây là ba điều Obama và nhóm của ông có thể làm để thực sự đưa Kony ra công lý:

First, Obama needs to strengthen the existing effort to weaken the LRA. This will require more African forces where the LRA is actually operating, backed by expanded human intelligence networks through improved programs to support defectors and more international support for affected communities.

Đầu tiên, Obama cần tăng cường các nỗ lực hiện có để làm suy yếu LRA. Điều này đòi hỏi có thêm các lực lượng châu Phi, nơi mà LRA là thực sự hoạt động; các lực lượng phải được hỗ trợ bởi mạng lưới nhân viên tình báo mở rộng thông qua các chương trình cải tiến để hỗ trợ những kẻ đào ngũ và mở rộng hỗ trợ quốc tế cho các cộng đồng bị ảnh hưởng.

Second, Obama should push for a high-level diplomatic initiative to be launched by the AU and the United Nations to gain access to the areas of the Central African Republic, Democratic Republic of the Congo, and Sudan that are currently LRA safe havens. If the regime in Khartoum continues to deny access, stronger measures -- such as U.N. targeted sanctions, an investigation into those providing sanctuary to Kony, and cross-border operations inside Sudan under the international "responsibility to protect" doctrine -- should be considered.

Thứ hai, Obama nên thúc đẩy một sáng kiến ​​ngoại giao cấp cao được đưa ra bởi AU và Liên Hiệp Quốc để đạt được quyền tiếp cận các khu vực của Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Dân chủ Congo, và Sudan hiện đang là nơi trú ẩn an toàn của LRA. Nếu chế độ ở Khartoum tiếp tục từ chối tiếp cận, cần xem xét các biện pháp mạnh mẽ hơn - chẳng hạn như các biện pháp trừng phạt có mục tiêu của Liên Hiệp Quốc, điều tra về những người cung cấp nơi trú ẩn cho Kony, và hoạt động qua biên giới bên trong Sudan theo học thuyết quốc tế về "trách nhiệm bảo kê".

Third, Obama should help the AU build an elite special-operations unit -- trained, equipped, and working in close cooperation with U.S. military advisors -- to directly target Kony and his top deputies. Although some rebel groups continue operating after their leader is removed from the battlefield, the LRA is so tied to Kony's personality and leadership that his demise or capture would most likely put an end to the group's activities.

Thứ ba, Obama nên giúp AU xây dựng một đơn vị hoạt động đặc biệt ưu tú được đào tạo, trang bị, và hoạt động trong sự hợp tác chặt chẽ với các cố vấn quân sự Mỹ - trực tiếp nhắm mục tiêu Kony và các cộng sự hàng đầu của y. Mặc dù một số nhóm nổi dậy tiếp tục hoạt động sau khi lãnh đạo của họ bị loại ra khỏi chiến trường, LRA gắn bó chặt chẽ với cá tính của Kony và ban lãnh đạo đến mức sự bắt giữ hay giết chết y rất có thể sẽ chấm dứt hoạt động của nhóm này.


With bipartisan support and hundreds of thousands of young Americans unexpectedly providing political space for a more robust U.S.-Africa partnership through the surprising viral advocacy of the Kony 2012 movement, Obama should move to bolster the campaign against this vicious predatory militia now. Good politics and good policy rarely intersect so conveniently.

Với sự hỗ trợ của cả hai đảng và hàng trăm ngàn người Mỹ trẻ bất ngờ cung cấp không gian chính trị cho một quan hệ đối tác Mỹ-Châu Phi mạnh mẽ hơn thông qua sự bênh vực lan tràn đáng ngạc nhiên  phong trào Kony 2012, Obama nên tiến tới tăng cường chiến dịch chống lại lực lượng quân sự giết chóc tàn ác này ngay bây giờ. Chính trị tốt và chính sách tốt hiếm khi giao nhau một cách thuận tiện như thế này.

John Prendergast, author of Unlikely Brothers, is co-founder of the Enough Project and the Satellite Sentinel Project.

John Prendergast, tác giả của Brothers Unlikely, là đồng sáng lập của dự án Enough Project và dự án truyền hình vệ tinh Sentinel.

Next: Kenneth Roth on why Obama should dump eight unsavory allies.
Tiếp theo: Kenneth Roth về lý do tại sao Obama nên rũ bỏ tám đồng minh không lành mạnh.
 

China’s Risky Path, From Revolution to War Đường đi nguy hiểm của Trung Quốc: Từ Cách mạng tới Chiến tranh






A Chinese Communist Party delegate holds a red voting ticket holder while leaving the Great Hall of the People with other delegates after the closing ceremony for the 18th Communist Party Congress in Beijing in November 2012. (Alexander F. Yuan)

Đại biểu Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm giữ thẻ bỏ phiếu màu đỏ trong khi rời Đại lễ đường nhân dân với các đại biểu sau lễ bế mạc  Đại hội Đảng Cộng sản 18 ở Bắc Kinh vào tháng 11 năm 2012. (Alexander F. Yuan)

China’s Risky Path, From Revolution to War

Đường đi nguy hiểm của Trung Quốc: Từ Cách mạng tới Chiến tranh

Cheng Li
thedailybeast.com
Cheng Li
thedailybeast.com



Jan 20, 2013
20/1/2013


As China prospers, it’s also vulnerable. From revolution to foreign war, sinologist Cheng Li explains the potential pitfalls.

Khi Trung Quốc phát triển cũng là lúc họ phải đối mặt với nhiều mối hiểm họa khôn lường, từ nội biến cho tới chiến tranh với nước khác - Nhà Hán học Cheng Li nhận định.

As President Barack Obama begins his second term in office, China poses a major policy challenge to the United States largely because of the unpredictable trajectory of both China’s domestic transformation and foreign relations. While there has been much attention paid to China’s rapid economic rise and growing international clout, two other scenarios have been overlooked: domestic revolution and foreign war. While some might view these events as “black swans”—low probability, high-impact developments—the Obama administration should be proactive and think through its policies options should these events unfold.

Khi tổng thống Obama bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai của mình, ông phải đối mặt với đầy những thách thức chính sách to lớn chủ yếu đến từ những biến chuyển khôn lường bên trong cũng như quan hệ với bên ngoài của Trung Quốc. Mặc dù người ta chú ý nhiều đến tăng trưởng kinh tế mau lẹ và sức ảnh hưởng toàn cầu không ngừng cải thiện của Trung Quốc, nhưng đang tồn tại hai kịch bản có thể xảy ra với Trung Quốc mà vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng mức: nội biến trong nước và chiến tranh với bên ngoài.

There are many serious problems in China that could trigger a major crisis, including slowing economic growth, widespread social unrest, rampant official corruption, vicious elite infighting, and heightened nationalism in the wake of escalated tensions over territorial disputes with Japan and some Southeast Asian countries. Either event would be very disruptive, severely impairing global economic development and regional security in the Asia-Pacific; a combination of the two would constitute one of the most complicated foreign-policy challenges for President Obama’s second term.

Có rất nhiều vấn đề nghiêm trọng đang tồn tại ở Trung Quốc có thể châm ngòi một cuộc khủng hoảng lớn, như tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, bất ổn xã hội lan rộng, nạn tham nhũng tràn lan, sự tranh giành quyền lực giữa tầng lớp tinh hoa, và các phong trào của chủ nghĩa dân tộc dâng cao trong bối cảnh căng thẳng leo thang trước vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với Nhật Bản và một số quốc gia khu vực Đông Nam Á. Tất cả những yếu tố trên gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng như làm suy giảm nghiêm trọng tốc độ phát triển kinh tế toàn cầu. Sự kết hợp giữa hai yếu tố trên sẽ là một trong những thách thức khó khăn và phức tạp nhất đối với nhiệm kỳ thứ hai của ông Obama.


There are two particularly undesirable outcomes. One is a situation in which the vast majority of the Chinese public becomes both anti–Communist Party leadership and anti-American. The other is a situation in which the new party boss, Xi Jinping, derives his popularity from a strong endorsement of Chinese militarism.

Đặc biệt, có hai kết cục không ai mong muốn xảy đến. Một là, đại đa số người dân Trung Hoa vừa không đồng tình với chính sách của giới lãnh đạo Trung Quốc, vừa phản đối Hoa Kỳ. Hai là, tình huống lãnh đạo mới Đảng cộng sản Trung Quốc Tập Cận Bình muốn lấy lòng dân chúng bằng cách thúc đẩy mạnh mẽ chủ nghĩa quân sự Trung Quốc.


The scenario of abrupt bottom-up revolution occurring in China has recently generated much debate within that country. One of the most popular books in elite circles today is the Chinese translation of Alexis de Tocqueville’s 1856 classic The Old Regime and the Revolution. In speeches given after becoming party general secretary, Xi warned that the party could collapse if the leadership failed to seize the opportunity to reform and improve governance.


Kịch bản xảy ra trong nước gần đây đang được tranh luận nhiều tại Trung Quốc. Một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất trong giới lãnh đạo cấp cao Trung Quốc hiện nay đó là bản dịch cuốn sách kinh điển The Old Regime and the Revolution (Chế độ cũ và cách mạng) của tác giả Alexis de Tocqueville viết năm 1856. Trong bài phát biểu sau khi trở thành Tổng bí thư, ông Tập Cận Bình cảnh báo rằng đảng Cộng sản Trung Quốc có thể sụp đổ nếu giới lãnh đạo không biết nắm bắt cơ hội để cải cách và nâng cao hiệu quả bộ máy quản lý.

The new leadership is known for its unprecedented predominance of “princelings” in power—leaders who come from families of high-ranking officials. Four of the seven Politburo Standing Committee members, including Xi, are princelings. Many prominent party leaders and their families have used their political power to convert state assets into private wealth; this includes transfers to family relatives who live, work, or study in the United States and other Western countries. This situation is not only undermining elite cohesion and the factional balance of power, but is also generating cynicism among the Chinese public regarding any promises on the part of the leadership to tackle corruption. Furthermore, it may add ammunition to the sensational accusation that the United States provides harbor to corrupt Communist Party officials.

Giới lãnh đạo mới được biết đến với ưu thế nổi trội là xuất thân từ gia đình có dòng nhà nòi. Bốn trong số bảy thành viên Ủy ban bộ chính trị, bao gồm cả ông Tập Cận Bình, đều là "con nhà nòi" trong giới chính trị. Có vị có vai vế và gia đình của họ đã dùng quyền lực biến tài sản quốc gia thành tài sản cá nhân, hay kể cả chuyển nhượng số tài sản đó sang cho thân nhân đang sinh sống, học tập và làm việc ở Mỹ hoặc các nước phương tây khác. Điều này không chỉ làm ảnh hưởng tới sự gắn kết giữa các nhà lãnh đạo và sự cân bằng lợi ích, quyền lực, mà còn làm gia tăng sự hoài nghi của người dân Trung Quốc trước những lời hứa bài trừ nạn tham nhũng của nhà cầm quyền. Thêm vào đó, điều này chẳng khác như đổ thêm dầu vào lửa trước những lời cáo buộc rằng Mỹ đã tiếp tay cho hoạt động tham nhũng của các quan chức Trung Quốc.


To avert this first scenario we should, while engaging with the Chinese leadership, more explicitly articulate to the Chinese people both the longstanding goodwill that the United States has toward China and America’s firm commitment to democracy, human rights, media freedom, and the rule of law, which we believe are fundamental to the long-term stability of any country.


Để ngăn chặn này kịch bản thứ nhất chúng ta nên, trong khi thương thảo với lãnh đạo Trung Quốc, giải thích rõ ràng hơn với người dân Trung Quốc cả thiện chí lâu dài mà Hoa Kỳ dành cho Trung Quốc và cam kết vững chắc của Mỹ với nền dân chủ, nhân quyền, tự do báo chí, và pháp trị, mà chúng ta tin là nền tảng cho sự ổn định lâu dài của bất kỳ quốc gia nào.

If the first scenario of domestic revolution can be seen as a failure of the Xi leadership to adopt effective political reforms to prevent crisis, then the second scenario—that of China in war—may be considered one possible “successful” attempt by Xi to consolidate power. This does not necessarily mean that the Chinese leadership intends to distract domestic tensions with an international conflict; contemporary Chinese history shows that the practice of trying to distract the public from domestic problems by playing up foreign conflicts has often ended in regime change. Yet Xi may be cornered into taking a confrontational approach to foreign policy in order to deflect criticism of his own strong foreign connections.

Nếu như kịch bản đầu tiên về cuộc cải cách trong nước có thể được nhìn nhận như một sự thất bại về lãnh đạo thông qua các cải cách chính trị hiệu quả để ngăn chặn khủng hoảng, thì kịch bản thứ hai - Trung Quốc tham chiến - có thể được đánh giá là nỗ lực "thành công" của giới lãnh đạo nhằm củng cố quyền lực. Điều này không hẳn có nghĩa là giới lãnh đạo Trung Quốc có ý định lấy xung đột bên ngoài để đánh lạc hướng những bất ổn bên trong. Lịch sử Trung Quốc hiện đại đã chỉ ra rằng thói quen đánh lạc hướng công chúng khỏi các vấn đề trong nước bằng cách chơi con bài xung đột với nước ngoài thường kết thúc bằng sự thay đổi mạnh mẽ. Nhưng có lẽ ông Tập Cận Bình cũng đang buộc phải dùng cách tiếp cận mang tính đối đầu trong các chính sách ngoại giao để làm chệch hướng những chỉ trích về các mối quan hệ của ông với bên ngoài.


The scenario of abrupt bottom-up revolution occurring in China has recently generated much debate.

Kịch bản của cuộc cách mạng từ dưới lên mà sẽ xảy ra đột ngột ở Trung Quốc gần đây đã tạo ra nhiều cuộc tranh luận.

Even more important, we need to pay attention to the emergence of militarism among some military officers. Chinese analysts have observed that these military princelings are interested in bolstering the military’s power in the upcoming Xi era. Such a move would have the potential to increase the risk of both military interference in domestic politics and military conflicts in foreign relations.

Điều cấp bách hiện này là cần để mắt tới sự xuất hiện của chủ nghĩa quân phiệt trong một số sĩ quan quân đội. Các nhà phân tích Trung Quốc quan sát thấy một số vị trong quân đội đang tập trung củng cố sức mạnh. Một động thái như vậy sẽ có khả năng làm tăng nguy cơ can thiệp quân sự vào cả các vấn đề chính trị trong nước cũng như xung đột quân sự trong quan hệ với nước ngoài.

It is not in the U.S.’s interest to see China’s transition to a constitutional democracy proceed in a manner overwhelmingly destructive to China’s social stability or its peaceful relations with any of its neighboring countries, which would risk leading the United States into war.
Clarifying to the Chinese public that the U.S. neither aims to contain China nor is oblivious to their national and historical sentiment would help reduce anxiety and possible hostility across the Pacific. Second, enhanced contact between U.S. and Chinese civilian and military policymakers can help us better understand the decision-making processes and domestic dynamics within China. It can also aid us in heading off a regional conflict. Finally, when done within a broader strategy with all our allies and neighbors in the region, it could reassure China that the United States is not only firmly committed to its regional security framework in the Asia-Pacific, but also genuinely interested in finding a broadly acceptable solution to the various disputes.

Mỹ sẽ không có lợi gì nếu để Trung Quốc chuyển biến sang một thể chế dân chủ hợp hiến theo một cách hết sức tiêu cực đối với sự ổn định xã hội Trung Quốc hay đối với những mối quan hệ tốt đẹp giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, điều này sẽ có nguy cơ kéo Mỹ vào cuộc chiến tranh.
Việc làm rõ cho dân chúng Trung Quốc hiểu rằng Mỹ không nhằm mục đích kiềm chế Trung Quốc cũng không bang quan trước tình cảm quốc gia và lịch sử của họ sẽ giúp giảm lo âu và thù địch có thể có giữ hai bờ Thái Bình Dương. Thứ hai, tăng cường tiếp xúc giữa Hoa Kỳ và các nhà hoạch định chính sách dân sự và quân sự của Trung Quốc có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn về các quá trình ra quyết định và động lực trong nước trong phạm vi Trung Quốc. Nó cũng có thể giúp chúng ta tránh được một cuộc xung đột khu vực. Cuối cùng, khi được thực hiện trong một chiến lược rộng lớn hơn với tất cả các đồng minh của chúng ta và các nước láng giềng trong khu vực, nó có thể trấn an Trung Quốc rằng Hoa Kỳ không chỉ là cam kết chắc chắn khuôn khổ an ninh khu vực ở châu Á-Thái Bình Dương, mà còn thực sự quan tâm tìm kiếm giải pháp được chấp nhận một cách rộng rãi cho các tranh chấp khác nhau.

Cheng Li is Senior Fellow and Director of Research in the John L. Thornton China Center at Brookings.  He is one of the authors of “Big Bets and Black Swans: A Presidential Briefing Book.”
Cheng Li là thành viên cao cấp và Giám đốc nghiên cứu tại Trung Quốc John L. Thornton, ở Brookings. Ông là một trong các tác giả của "Đặt cược lớn và Thiên nga đen: một cuốn sách đểm mặt các Tổng thống."





http://www.thedailybeast.com/articles/2013/01/20/china-s-risky-path-from-revolution-to-war.html