MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Monday, July 2, 2012

The Gettysburg address Diễn văn Gettysburg








The Gettysburg address

Diễn văn Gettysburg

Abraham Lincoln

Abraham Lincoln

Four score and seven years ago our fathers brought forth on this continent, a new nation, conceived in Liberty, and dedicated to the proposition that all men are created equal.

Tám mươi bảy năm trước ông cha chúng ta đã khai sinh ra trên lục địa này một quốc gia mới, được thai nghén trong Tự do, và sống hiến dâng cho lý tưởng được đề ra, rằng tất cả mọi người được tạo hóa sinh ra bình đẳng.


Now we are engaged in a great civil war, testing whether that nation, or any nation so conceived and so dedicated, can long endure. We are met on a great battle-field of that war. We have come to dedicate a portion of that field, as a final resting place for those who here gave their lives that that nation might live. It is altogether fitting and proper that we should do this.

Giờ đây chúng ta bị lâm vào một cuộc nội chiến lớn, thử thách xem quốc gia này, hay bất cứ quốc gia nào được thai nghén và sống hiến dâng như thế, có thể tồn tại được lâu dài hay không. Chúng ta gặp nhau trên một chiến trường lớn của cuộc chiến này. Chúng ta đến để hiến dâng một phần đất nhỏ của chiến trường này làm nơi an nghỉ cuối cùng cho những người đã để lại mạng sống mình tại đây, để cho quốc gia này có thể tồn tại. Tất cả đều phù hợp và chính đáng để chúng ta làm việc này.

But, in a larger sense, we can not dedicate -- we can not consecrate -- we can not hallow -- this ground. The brave men, living and dead, who struggled here, have consecrated it, far above our poor power to add or detract. The world will little note, nor long remember what we say here, but it can never forget what they did here. It is for us the living, rather, to be dedicated here to the unfinished work which they who fought here have thus far so nobly advanced. It is rather for us to be here dedicated to the great task remaining before us -- that from these honored dead we take increased devotion to that cause for which they gave the last full measure of devotion -- that we here highly resolve that these dead shall not have died in vain -- that this nation, under God, shall have a new birth of freedom -- and that government of the people, by the people, for the people, shall not perish from the earth.

Tuy nhiên, theo một nghĩa rộng hơn, chúng ta không thể hiến dâng – không thể tôn phong – không thể thánh hóa – miếng đất này. Chính những con người dũng cảm đã chiến đấu tại đây, dù còn sống hay đã chết, đã làm thiêng liêng nó, vượt xa khả năng kém cỏi của chúng ta để thêm hay bớt đi điều gì cho nó. Thế giới sẽ ít chú ý, hay nhớ lâu những gì chúng ta nói ở đây, nhưng sẽ không bao giờ quên điều gì họ đã làm ở đây. Chính chúng ta, những người còn sống, mới phải hiến dâng mình cho công việc dở dang mà những người chiến đấu ở đây đã tiến hành một cách cao quý. Chính chúng ta mới là những người phải hiến dâng mình cho nhiệm vụ lớn còn ở trước mặt – rằng từ những người chết được vinh danh này chúng ta sẽ nhận lấy sự tận tụy nhiều hơn cho sự nghiệp mà họ đã cống hiến đến hơi thở cuối cùng – rằng chúng ta ở đây sẽ có quyết tâm cao để cho những người đã ngã xuống sẽ không hy sinh một cách phí hoài – rằng quốc gia này, dưới ơn trên của Chúa, sẽ chứng kiến một cuộc sinh nở mới của tự do – và rằng chính quyền của dân, do dân và vì dân, sẽ không biến mất khỏi trái đất này.


19.11.1863
Source: Collected Works of Abraham Lincoln, edited by Roy P. Basler.
Translated by Nguyễn Xuân Xanh


Vietnam needs an economic rethink Việt Nam cần xem lại nền kinh tế



Vietnam needs an economic rethink

Việt Nam cần xem lại nền kinh tế
Bruce Gale
The Straits Times (Singapore)
November 17, 2010
Bruce Gale
The Straits Times (Singapore)
17/11/2010


How long is Vietnam going to remain Asia's odd man out?

Việt Nam sẽ còn là kẻ lạc lõng ở châu Á trong bao lâu?

While the US dollar has been losing its value against almost all other currencies in Asia, it is appreciating against the Vietnamese dong. And while the nation's gross domestic product is expanding rapidly, Vietnam is virtually the only country in the region struggling to contain a rising trade deficit.

Trong khi đồng Mỹ kim đang bị mất giá so với hầu hết các mệnh giá tiền tại châu Á, nó lại tăng giá so với tiền đồng Việt Nam. Và trong khi tổng sản lượng nội địa quốc gia tăng một cách nhanh chóng, Việt Nam hầu như là quốc gia duy nhất trong vùng vẫn đang vật lộn để kềm chế nạn thâm thủng mậu dịch.


Many of the country's problems can be traced to an overemphasis on growth. That strategy has produced fiscal deficits, inflation and an unstable exchange rate regime. Inflation is currently running at 10 per cent. Low interest rates and easy money have also led to a surge in imports, thus widening the trade deficit. Official statistics show that the deficit reached US $9.5 billion (S $12.4 billion) in the first 10 months of this year, up from US $8.4 billion in the same period last year. And the monetary authorities have devalued the currency thrice in the past year.

Đa phần những nan giải của quốc gia này có thể qui về việc quá chú trọng vào tăng trưởng. Chiến lược này đã làm nảy sinh ra nạn thâm thủng ngân sách, lạm phát và một chế độ tỉ giá hối đoái thiếu ổn định. Các dữ kiện của chính phủ cho thấy tỉ lệ thâm thủng đã đạt đến 9,5 tỉ Mỹ kim trong mười tháng đầu của năm nay so với 8,4 tỉ trong cùng kỳ năm ngoái. Và giới hữu trách về tiền tệ đã hạ giá tiền đồng ba lần trong năm qua.


Despite this, foreign investors still seem to have confidence in the country. Direct foreign investment this year is expected to reach US $8 billion, far ahead of that projected for the Philippines.


Mặc dù thế, giới đầu tư nước ngoài có vẻ vẫn tin tưởng vào quốc gia này. Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài trong năm nay được dự đoán sẽ đạt đến 8 tỉ Mỹ kim, vượt xa so với con số dự đoán tại Philippines.


Unfortunately, the new investment is almost entirely confined to infrastructure, with the construction of deep-water seaports, highways, hydroelectric power plants and fibre optic cable systems. Such investment is important to ensure future growth. But the more immediate problem is to find ways of boosting exports by encouraging investment in non-traditional manufactured goods.

Điều không may là nguồn đầu tư mới này hầu hết chỉ gói gọn trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, với việc xây dựng các cảng biển, đường cao tốc, các đập thuỷ điện và những hệ thống mạng cáp quang. Những đầu tư dạng này thì rất quan trọng trong việc bảo đảm sự tăng trưởng tương lai. Nhưng khó khăn khẩn cấp hơn trước mắt là tìm cách tăng cường xuất khẩu bằng việc khuyến khích đầu tư vào những mặt hàng sản xuất không không truyền thống.


Vietnam's medium- and long-term prospects look good, particularly for manufacturing companies seeking an alternative to China. Wages are about a third lower than in China's coastal industrial areas. English is widely spoken, and Vietnamese workers are generally regarded as hard-working.


Những viễn cảnh trong thời hạn trung và lâu dài của Việt Nam thì khả quan, đặc biệt là đối với những công ty sản xuất đang tìm giải pháp khác ngoài Trung Quốc. Lương lao động thấp hơn khoản một phần ba so với khu vực công nghiệp duyên hải của Trung Quốc. Tiếng Anh được sử dụng rộng rãi, và lao động Việt Nam nói chung thường được cho là chăm chỉ.


Vietnam's economic management, however, leaves much to be desired. It is a situation that may soon be weighing heavily on the minds of potential investors.


Tuy nhiên việc quản lý kinh tế của Việt Nam lại chẳng có gì là hấp dẫn. Tình trạng này sẽ sớm đè nặng trong suy tính của những nhà đầu tư tiềm năng.


The recent revelation that a government-owned shipping company racked up debts of more than $5.2 billion, for example, has highlighted the need to reform the nation's ailing state enterprises. Another issue is the low quality and uneven quantity of the economic data the government releases. But the most serious problem is muddle-headed policy formulation. This has made it difficult for foreigners to have confidence in the country's future direction.


Ví dụ như khám phá gần đây về việc một công ty tàu thuyền của nhà nước ôm món nợ lên đến hơn 5,2 tỉ Mỹ kim đã nêu bật sự cần thiết phải cải cách những công ty nhà nước đang suy yếu. Một vấn đề khác nữa là chất lượng thấp hoặc không đồng đều của dữ liệu thông tin về kinh tế mà nhà nước đưa ra. Nhưng vấn đề nghiêm trọng nhất là công thức thiết lập chính sách đầy ngu xuẩn. Điều này đã khiến cho người nước ngoài khó mà tin tưởng vào hướng đi tương lai của đất nước.


On Nov 5, the central bank raised its benchmark rate on dong-denominated loans by 1 percentage point in an attempt to support the local currency and dampen inflationary pressures. The move came as a surprise, particularly since the monetary authorities had repeatedly called on local banks to reduce their lending rates. The central bank had even stated the previous week that it intended to hold rates steady for the month.


Ngày 5 tháng Mười một, ngân hàng trung ương đã tăng tỉ giá lãi xuất cơ bản của các món nợ bằng tiền đồng lên 1 phần trăm nhằm tìm cách hỗ trợ đồng tiền trong nước và giảm thiểu những áp lực về lạm phát. Hành động này xảy ra thật bất ngờ, đặc biệt là khi cơ quan hữu trách về đã không ngừng kêu gọi các ngân hàng địa phương giảm tỉ lệ lãi cho vay. Ngay cả một tuần trước đó ngân hàng trung ương vẫn tuyên bố rằng sẽ cố gắng giữ nguyên tỉ giá trong tháng.


The about-face prompted memories of a Finance Ministry circular late last year that raised the possibility of using price controls to hold down inflation. It was rescinded by the ministry in April this year without comment after foreign governments and businesses expressed concern.


Thái độ mang tính sĩ diện này nhắc lại bản thông tư của Bộ Tài chính vào cuối năm ngoái đề cập đến khả năng kiểm soát giá cả nhằm kềm chế lạm phát. Việc này đã được Bộ Tài chính huỷ bỏ vào tháng Tư năm nay mà không có lời giải thích sau khi các chính phủ và doanh nghiệp nước ngoài bày tỏ quan ngại.


The upcoming congress of the ruling Communist Party of Vietnam (CPV) in January is further complicating matters by encouraging policymakers to continue high-growth strategies in an effort to head off domestic unrest. Some senior party members have also been showing signs of nervousness, with hardliners calling for a crackdown on dissent in ways that could strain relations with major Western countries.


Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng Giêng sắp tới sẽ làm cho vấn đề thêm phức tạp bằng cách khuyến khích chính quyền tiếp tục đi theo chiến lược tăng trưởng nhanh để tìm cách đánh lạc hướng những bất ổn trong nước. Một số lãnh đạo cao cấp trong đảng cũng có những dấu hiệu lo lắng, cùng việc giới cứng rắn kêu gọi đàn áp các nhà bất đồng chính kiến có thể làm căng thẳng những quan hệ với các quốc gia lớn ở phương Tây.


But the CPV congress could also see some positive change. Such congresses, which take place once every five years to elect a new central committee and politburo, often provide Vietnamese leaders with opportunities to announce important policy initiatives.


Nhưng đại hội Đảng cũng có thể tạo ra được những thay đổi tích cực. Những đại hội như thế này xảy ra mỗi năm năm để bầu ra uỷ ban trung ương và bộ chính trị mới, thường tạo cơ hội cho các lãnh đạo Việt Nam công bố những dự thảo cương lĩnh quan trọng.


Vietnam's opaque political system makes it difficult to say exactly what the new party leadership will look like after January's elections. However, age ceilings mean that slightly more than a third of the political bureau's current 15 members will have to retire. This is certainly good news for those who believe that older Vietnamese leaders have been responsible for slowing down reforms.


Với hệ thống chính trị của Việt Nam, thật khó có thể tuyên bố chính xác rằng giới lãnh đạo đảng mới sẽ như thế nào sau cuộc bầu cử tháng Giêng. Nhưng giới hạn tuổi tác có nghĩa là gần một phần ba thành phần 15 người trong bộ chính trị hiện nay phải về hưu. Đây chắc chắn là một tin mừng cho những ai tin vào việc thế hệ lãnh đạo lớn tuổi của Việt Nam đã phải chịu trách nhiệm về việc làm chậm trễ tiến trình đổi mới.


After the congress, concern that slower growth could undermine support for key party leaders should also ease. The CPV may therefore be more willing to allow tighter fiscal and monetary policies.


Sau đại hội, quan ngại về sự tăng trưởng chậm chạp có thể làm mất đi sự ủng hộ của những lãnh đạo chủ chốt trong đảng cũng sẽ giảm bớt. Từ đấy Đảng Cộng sản có thể sẽ sẵn sàng cho phép xiết chặt hơn chính sách về ngân sách và tiền tệ.


If macroeconomic stability continues to remain in doubt, Vietnam risks losing the goodwill of the foreign investors it so obviously needs. In 2006, when Intel announced its intention to build a US $1 billion semiconductor factory near Ho Chi Minh City, the move sent a strong message about the company's comfort level with the country that other electronics companies found hard to ignore. Taiwan's Hon Hai, the maker of Apple's iPod, for example, subsequently invested almost US $5 billion in the country.


Nếu sự ổn định về kinh tế vĩ mô vẫn tiếp tục là một nghi vấn, Việt Nam sẽ có nguy cơ bị mất đi thiện chí của các nhà đầu tư nước ngoài mà rõ ràng là họ đang rất cần. Năm 2006, khi Intel thông báo ý định xây dựng một nhà máy sản xuất vi mạch trị giá 1 tỉ Mỹ kim gần Thành phố Hồ Chí Minh, họ đã gửi một thông điệp về mức độ tin tưởng của mình đối với quốc gia này, khiến những công ty điện tử khác khó để bỏ qua. Ví dụ như tập đoàn Hồng Hải của Đài Loan chuyên sản xuất sản phẩm Ipod của Apple sau đó đã đầu tư gần 5 tỉ Mỹ kim vào đất nước này.


Such iconic investors, however, are hard to attract. Producing yet another wave of export-oriented investment may well depend upon the new party leadership formulating a more consistent economic strategy.
Nhưng cũng khó để hấp dẫn được những nhà đầu tư nổi tiếng như thế. Việc tạo ra một làn sóng mới về đầu tư trong lĩnh vực xuất khấu có thể tuỳ thuộc lớn vào việc giới lãnh đạo mới của đảng đưa ra được một chiến lược kinh tế nhất quán hơn.




Translated by Diên Vỹ


http://tuoitrenews.vn/cmlink/tuoitrenews/business/vietnam-needs-an-economic-rethink-1.15184

Vietnam: Balancing growth and stability in a more market-oriented economy Việt Nam: Cân bằng tăng trưởng và ổn định trong một nền kinh tế định hướng thị trường hơn




Vietnam: Balancing growth and stability in a more market-oriented economy

Việt Nam: Cân bằng tăng trưởng và ổn định trong một nền kinh tế định hướng thị trường hơn

Suiwah Leung, ANU
Suiwah Leung, ANU
December 28th, 2010

28/12/2010

A new generation of leadership is expected to emerge from the 11th national congress of the Vietnamese Communist Party in January 2011. Both the President and the Secretary-General of the Vietnamese Communist Party are expected to be stepping down, and a question mark hovers over the re-appointment of the current Prime Minister, Mr Nguyen Tan Dung.

Một thế hệ lãnh đạo mới đang được trông đợi xuất hiện từ đại hội toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 11 vào ngày 11 tháng Giêng 2011. Cả Chủ tịch nước lẫn Tổng Bí thư Đảng Cộng sản hiện tại đều được cho là sẽ rút lui, và một dấu hỏi đang lượn lờ trên việc tái đề bạt vị Thủ tướng hiện tại, ông Nguyễn Tấn Dũng.

After leading the country into the WTO, amongst other market-oriented reforms, Mr Dung’s personal standing within the Party has been tarnished in recent months by the near-collapse of the large state-owned shipbuilding conglomerate, Vinashin. Whether the new leadership is reformist or conservative, it will be confronted with the issue of balancing short-term growth with macroeconomic stability.


Sau khi đưa đất nước tham gia vào Tổ chức Thương mại Thế giới cũng như những cải cách định hướng thị trường, vị trí cá nhân của ông Dũng bên trong nội bộ Đảng đang bị suy giảm trong những tháng qua vì vụ việc tập đoàn đóng tàu nhà nước Vinashin. Cho dù giới lãnh đạo mới là người cách tân hay thủ cựu, họ đều phải đối diện với vấn đề cân bằng sự tăng trưởng ngắn hạn với sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô.

Vietnam survived the GFC in better shape than most other countries of its size in the region, with a growth rate of 5.3 per cent in 2009. Throughout much of 2010, pro-growth policies resulted in estimated growth rates of around 6.7 per cent. However, with credit growth exceeding the (already high) official target of 25 per cent for the year, and Vietnam’s headline inflation rate looking to be in double-digits year-on-year, the State Bank of Vietnam had to reverse gear and raised official interest rates from 8 to 9 percent in November 2010.


Việt Nam đã sống qua cơn khủng hoảng tài chính thế giới tốt hơn so với hầu hết những quốc gia cùng tầm cỡ khác trong khu vực với tỉ lệ tăng trưởng là 5,3% trong năm 2009. Trong suốt năm 2010, chính sách chú trọng tăng trưởng đã đưa đến kết quả tỉ lệ tăng trưởng được dự đoán là ở mức 6,7%. Tuy nhiên, với tỉ lệ tín dụng tăng quá chỉ tiêu nhà nước (vốn đã cao) ở mức 25% trong năm, và tỉ lệ lạm phát hàng đầu ở Việt Nam đang nằm ở mức hàng chục tính theo từng năm, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phải đảo ngược vị trí và tăng tỉ giá lãi từ 8 lên 9% vào tháng Mười một 2010.


More needs to be done, however, in order to ease the pressure on the dong, which has been devalued three times since November 2009. The official exchange rate is again about 10 per cent above the current ‘black market’ rate.


Tuy nhiên vẫn còn nhiều điều cần làm để giảm bớt áp lực lên tờ đồng, vốn đang bị giảm giá ba lần kể từ tháng Mười một 2009. Tỉ giá hối đoái chính thức ở vào khoảng 10% cao hơn so với tỉ giá "chợ đen" hiện tại.


The 2010 current account deficit (excluding gold) is projected to be just under 7 per cent of GDP which is relatively high for an emerging Asian economy. International reserves, although stabilised, are at an uncomfortably low level, covering about 1.8 months of imports.

Tỉ lệ thâm thủng tài khoảng hiện tại của năm 2010 (không kể vàng) được dự đoán chỉ dưới 7% Tổng Sản lượng Nội địa, là tương đối cao đối với một nền kinh tế đang lên ở châu Á. Quỹ dự trữ ngoại tệ, mặc dù đã được ổn định, vẫn đang nằm ở mức thấp đầy bất ổn, chỉ bảo đảm được khoảng 1,8 tháng nhập khẩu.


A more comprehensive package of macroeconomic policies, including fiscal consolidation, is needed to convince the market that the government is aware of the risks to macroeconomic stability and is managing those risks appropriately. In the medium-term, greater flexibility in the exchange rate regime is also needed to enable the private sector to manage exchange rate risks more effectively. Once confidence is re-established, households and enterprises are likely to cease hoarding US dollars and gold as a hedge against inflation and devaluations of the dong, and the so-called ‘dollar shortage’ (in reality, unwillingness to hold dong assets) should disappear.


Cần có một tập hợp chính sách kinh tế vĩ mô thấu suốt hơn, bao gồm việc củng cố quỹ tài chính, để thuyết phục thị trường rằng chính phủ đã nhận thức được những rủi ro của sự ổn định kinh tế vĩ mô và đang đối phó đúng mức với những rủi ro ấy. Trong thời hạn trung bình, sự linh hoạt hơn trong chính sách tỉ giá hối đoái cũng cần có để cho phép lĩnh vực tư nhân đối phó với rủi ro từ tỉ giá hối đoái một cách hiệu quả hơn. Một khi niềm tin đã được tái lập, người dân và doanh nghiệp chắc chắn sẽ giảm bớt việc tích trữ đồng đô la và vàng như là nguồn bảo hiểm chống lại nạn lạm phát và sự tụt giá của tiền đồng, và cái gọi là "thiếu hụt đô la" (trên thực tế là vị sự miễn cưỡng không chịu giữ tiền đồng) sẽ biết mất.


The likelihood, however, of such a comprehensive package being adopted in 2011 is slim. Even with most stimulus measures having expired by end-2009, a reduction in the budget deficit to substantially below the level in 2009 of 9 per cent of GDP is unlikely, due to (often inefficient) spending on infrastructure and social welfare programs.

Tuy nhiên khả năng về một loạt chính sách thấu suốt được thông qua vào năm 2001 thì rất mỏng manh. Ngay cả khi các biện pháp kích cầu cao nhất đã hết hạn vào cuối năm 2009, việc cắt giảm sự thâm thụt ngân sách để tụt nhiều dưới mức 9% Tổng Sản lượng địa của năm 2009 chắc sẽ không xảy ra vì chi phí (thường không có hiệu quả) cho cơ sở hạ tầng và các chương trình phúc lợi xã hội.


Without significant fiscal consolidation, Vietnam’s public debt to GDP ratio could well exceed 50 per cent, making it more costly for the government to borrow internationally, and further limiting the fiscal space. Furthermore, perhaps not surprisingly, the transition from direct to indirect monetary policy instruments is not unproblematic, and recently announced price controls to fight inflation, if implemented, could further undermine confidence amongst domestic and foreign investors.


Nếu không có biện pháp củng cố tài chính mạnh mẽ, tỉ lệ nợ công của Việt Nam so với Tổng Sản lượng Nội địa có thể vượt quá 50%, khiến cho chính quyền sẽ tốn kém hơn khi vay mượn từ nước ngoài, và càng giới hạn hơn nữa khả năng tài chính. Hơn nữa, có lẽ là không có gì ngạc nhiên, sự chuyển giao các biện pháp về chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp thì không phải là không có vấn đề, và việc kiểm soát giá cả để chống lạm phát vừa được thông báo gần đây, nếu được thực thi, có thể làm giảm thêm sự tin tưởng của giới đầu tư trong và ngoài nước.


It is in this context that the forthcoming Party Congress in January is important. Two decades of economic reforms and globalisation have made Vietnam a middle-income country with a rapidly growing domestic private sector. A return to a more dirigiste style of economic management on the part of the conservative elements in the Party is likely to dampen the domestic private sector, with negative consequences for economic growth in the medium term. Whilst there is perhaps no serious chance of a return to central planning, a ‘stop-go’ approach to economic policy-making could prevail.


Trong bối cảnh này, Đại hội Đảng vào tháng Giêng sắp đến là rất quan trọng. Hai thập niên cải cách kinh tế và toàn cầu hoá đã biến Việt Nam thành một quốc gia có thu nhập trung bình với một lĩnh vực tư nhân trong nước đang tăng trưởng nhanh. Sự quay lại của phong cách quản lý kinh tế bao cấp hơn trong bộ phận những thành phần bảo thủ trong Đảng chắc chắn sẽ làm yếu lĩnh vực tư nhân trong nước với những hệ quả tiêu cực đối với sự tăng trưởng kinh tế trong thời hạn trung bình. Trong khi có dù không có thay đổi quan trọng để quay lại phương pháp kế hoạch trung ương ngày xưa, một phong cách "giật cục" trong việc thiết lập chính sách kinh tế có thể sẽ quay lại.


If the reformist elements of the Party continue their ascendancy, fairly rapid reforms in key macroeconomic institutions could take place in the next 2 to 3 years. This could improve Vietnam’s macroeconomic policy-making and the government’s ability to communicate its policy stance to the market. In time, reforms could spread to other public institutions, assisting in the development of a dynamic and innovative private sector, and enabling Vietnam to achieve its long-term growth potential.


Nếu thành phần cấp tiến trong Đảng tiếp tục có thế lực, những cải cách tương đối nhanh trong các cơ quan kinh tế vĩ mô chủ chốt có thể xảy ra trong 2 đến 3 năm tới. Điều này có thể giúp phát triển tốt hơn việc soạn thảo chính sách kinh tế vĩ mô cũng như khả năng của chính phủ trong việc truyền tải quan điểm chính sách của mình đến thị trường. Với thời gian, đổi mới có thể lan toả đến những cơ quan nhà nước, giúp phát triển lĩnh vực tư nhân đầy năng động và sáng tạo, và cho phép Việt Nam gặt hái được những tiềm tăng tăng trưởng dài hạn của mình.

Suiwah Leung is an Adjunct Associate Professor of Economics at the Crawford School, ANU.
Suiwah Leung là Phó Giáo sư Kinh tế tại Trường Crawford, ANU.


Translated by Diên Vỹ


http://www.eastasiaforum.org/2010/12/28/vietnam-balancing-growth-and-stability-in-a-more-market-oriented-economy/

Economics and Democracy Kinh tế và dân chủ




Economics and Democracy

Kinh tế và dân chủ

James Galbraith, Economist's View
James Galbraith, Economist's View


James Galbraith reviews two books on the link between economics and democracy:

How to explain the link between economics and democracy. Democracy Journal: Reviewed by James Galbraith: Economic Origins of Dictatorship and Democracy By Daron Acemoglu and James A. Robinson, and A Free Nation Deep in Debt: The Financial Roots of Democracy By James MacDonald:

James Galbraith đánh giá hai cuốn sách về sự liên kết giữa kinh tế và dân chủ:

Làm thế nào để giải thích sự liên kết giữa kinh tế và dân chủ. Tạp chí dân chủ: James Galbraith nhận xét: Nguồn gốc kinh tế của chế độ độc tài và dân chủ của các tác giả Daron Acemoglu và James A. Robinson, và Quốc gia tự do lún sâu trong nợ nần: Nguồn gốc của tài chính Dân chủ của James MacDonald:
From where does democracy come? Is rule "by the people, for the people" ... as the great American civic faith would have us believe? Is it the most effective way to solve social problems–as John Dewey and the pragmatists argued? Or is it merely the worst system except for all the others, as Winston Churchill dismissively quipped?

Dân chủ từ đâu mà đến? Phải chăng quy tắc "do dân và vì dân"... là niềm tin dân sự Hoa Kỳ vĩ đại mà chúng ta từng tin tưởng? Phải chăng đấy là phương cách hiệu quả nhất để giải quyết các vấn đề xã hội, như John Dewey và các nhà thực nghiệm từng lập luận? Hay ngoại trừ việc dân chủ từng thực sự hữu ích cho tất cả những người khác nhưng vẫn chỉ là một hệ thống tồi tệ nhất như Winston Churchill từng mỉa mai một cách thô bạo?


These two important books–Economic Origins of Dictatorship and Democracy by Daron Acemoglu and James Robinson and A Free Nation Deep in Debt by James MacDonald–take an economic view... They locate the origins of democracy not in ethics or social engineering, but as a side effect of the struggle for goods and services, wealth and market power. And yet, that is their only resemblance. They refer to few of the same facts and none of the same literature. Their uses of the term "economic" are totally dissimilar, and in that dissimilarity they reveal as much about the great divides within economics as they do about the origins and fate of democracy.

Hai cuốn sách kinh tế quan trọng - Các Nguồn gốc Kinh tế của Độc tài và Dân chủ - của Daron Acemoglu và James Robinson cùng cuốn Một Đất nước Tự do Chìm đắm trong Nợ nần của James MacDonald - đứng trên một quan điểm kinh tế... Họ xác định các nguồn gốc của nền dân chủ không phải trong đạo đức, bố trí xã hội, nhưng là một tác dụng phụ của cuộc đấu tranh cho hàng hoá, dịch vụ, sự giàu có và quyền lực thị trường. Chưa hết, đó còn là sự tương đồng duy nhất của hai tác phẩm này. Hai cuốn sách đã tham khảo đến một số các sự kiện giống nhau nhưng không hề có một tài liệu tương tự nào. Việc sử dụng thuật ngữ "kinh tế" của chúng là hoàn toàn khác nhau, và trong sự không giống nhau ấy, khi vạch ra các nguồn gốc và số phận của dân chủ, chúng tiết lộ nhiều về những khác biệt lớn trong các nền kinh tế.


The contrast is... one of substance. One book associates democracy with the material temptations of populism: Democracy arises because it redistributes income to the masses. The other sees the democratic advantage in evolutionary and comparative perspective: Democracies survive and thrive because they beat out rival systems, most especially on the battlefield, history’s ultimate test of material capacity.


Sự tương phản là... thuộc về thực chất. Một cuốn sách liên kết dân chủ với những cám dỗ vật chất của chủ nghĩa dân tuý: Dân chủ phát sinh bởi vì nó tái phân phối lợi tức cho công chúng. Cuốn kia nhìn thấy lợi thế dân chủ trong các quan điểm tiến hóa và so sánh: Các nền dân chủ tồn tại và phát triển mạnh, bởi vì chúng đánh bại được các hệ thống đối thủ, đặc biệt là trên chiến trường, thử nghiệm cuối cùng cho năng lực thực tại của lịch sử.


But behind the competing theses lies a deeper conflict of form. One book reflects the dominant spiritual tendencies of political science and neoclassical economics, rooted in methodological individualism... The argument proceeds mathematically, by axiom and proof. Though the reference is broadly to democracy allied with capitalism, there is no discussion of credit, money, banking, financial markets, or other basic capitalist institutions...


Nhưng đằng sau những chủ đề đối chọi ẩn chứa một xung đột sâu sắc hơn về hình thái. Một cuốn sách phản ánh xu hướng tinh thần chủ đạo của khoa học chính trị và kinh tế học tân cổ điển, bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân về phương pháp luận... Một thứ lập luận tiến hành một cách toán học, bằng tiền đề và chứng minh. Mặc dù tham chiếu rộng rãi đến dân chủ liên minh với chủ nghĩa tư bản, nhưng không hề có thảo luận gì về các nội dung tín dụng, tiền bạc, ngân hàng, các thị trường tài chính hoặc các định chế căn bản khác của chủ nghĩa tư bản ...


The other book is a masterpiece of historical narrative, founded on an immense trove of numerical detail, drawn from the records of public finance and credit markets over millennia. Yet it is not the sort of "measurement without theory" that might be dismissed as redolent of the German Historical School...
Còn cuốn sách kia là một kiệt tác của loại chuyện kể về lịch sử, được hình thành trên kho tàng rộng lớn của những con số cụ thể, rút ra từ các hồ sơ tài chính công cộng và thị trường tín dụng trong thiên niên kỷ. Tuy nhiên, nó không phải là loại "đo lường không có lý thuyết" khiến có thể được miễn nhiễm như các hương hoa điểm trang của trường dạy về lịch sử nước Đức...


The contest between these works is thus as much a contest between the hypothetico-deductive and the evolutionary method, as it is between a "real" and a "monetary" view of economics, and as much between a theory of distribution and a theory focused on efficiency and growth. In short, they offer competing models for economics and political science. ...


Cuộc thi thố giữa hai công trình này đa phần là cuộc thi thố giữa các suy diễn-có tính giả thuyết và các phương pháp tiến hóa, vì chúng quả là cuộc thi thố giữa một quan điểm "có thực" và một quan điểm "tiền tệ" của các nền kinh tế, cũng như đa phần là giữa một lý thuyết về phân phối với một lý thuyết tập trung vào hiệu quả và sự tăng trưởng. Nói vắn tắt, chúng mang lại các mô hình cạnh tranh về kinh tế và khoa học chính trị...


For Acemoglu and Robinson, an MIT economist and a Harvard political scientist, respectively, the word "economic" signifies the neo-Benthamite doctrine of "rational choice"–a theory of behavior... To them, democracy is a process, not an end, and the preference for it is utilitarian and not a matter of values...

Đối với Acemoglu một nhà kinh tế của MIT và Robinson một khoa học gia về chính trị học của Harvard, từ "kinh tế" biểu hiện học thuyết tân Benthamite của "sự lựa chọn hợp lý" - một lý thuyết về hành vi... Đối với họ, dân chủ là một tiến trình chứ không phải là một điểm đến và các ưu đãi của dân chủ là sự vị lợi chứ kông phải vấn đề của giá trị...

Acemoglu and Robinson do not argue that democracies are more efficient, yielding more income for everyone. Their argument is about distribution... Acemoglu and Robinson invoke the familiar mechanics of class conflict. All societies are divided into "elites" and "citizens." "Typically," Acemoglu and Robinson write, "there is political conflict between the elites and the citizens."... Yet unlike Marx, Acemoglu and Robinson argue that the outcome of struggle is generally not revolution leading to proletarian dictatorship, but democracy. Wanting money, the citizens press for the vote. And, though revolutions obviously occur sometimes, democracy is simply a rational alternative: less costly to the elites, equally beneficial to the masses. In short, democracy arises because elites choose to concede it, rather than face the prospect of being disposed of unpleasantly. A few major social parameters, especially the previously existing degree of inequality, determine these relative benefits and costs. Very roughly, high degrees of inequality deepen class conflict and the resistance of elites to democracy, while very low degrees of inequality reduce the gains citizens expect from democratization. Somewhere in between there is a sweet spot, and there democracies grow. ...


Acemoglu và Robinson không lập luận rằng dân chủ có hiệu quả hơn, mang lại nhiều thu nhập hơn cho mọi người. Lập luận của họ là về sự phân phối... Acemoglu và Robinson khiêu khích đến tính cơ học quen thuộc của xung đột giai cấp. Tất cả các xã hội được chia ra thành các "công dân" và thành phần "tinh hoa". "Thông thường", Acemoglu và Robinson viết, "không hề có xung khắc về chính trị giữa các tầng lớp tinh hoa và các công dân"... Tuy nhiên, không như Marx, Acemoglu và Robinson cho rằng kết quả của cuộc đấu tranh thường không đưa đến cuộc cách mạng chuyên chính vô sản mà đến dân chủ. Muốn có tiền, các công dân áp lực lên lá phiếu bầu. Và, mặc dù rõ ràng cách mạng đôi khi có xảy ra, dân chủ chỉ đơn giản là một thay thế hợp lý: ít tốn kém cho thành phần tinh hoa và có lợi đồng đều cho công chúng. Nói vắn tắt, dân chủ đã phát sinh bởi vì tầng lớp tinh hoa lựa chọn để thừa nhận nó, thay vì phải đối mặt với viễn cảnh bị đào thải khó chịu. Một vài thông số chính xã hội, đặc biệt là mức độ hiện hữu trước đây về bất bình đẳng, tương đối xác định được những lợi ích và phí tổn. Rất đại khái là, những mức độ cao của các xung đột bất bình đẳng sẽ làm sâu sắc thêm xung khắc giai cấp và sức đề kháng của các tầng lớp tinh hoa đối với dân chủ, trong khi các mức độ rất thấp của bất bình đẳng giảm đi những gì người dân mong đợi từ dân chủ hóa. Đâu đó ở khúc giữa có một nơi ngọt ngào và ở đó có nền dân chủ phát triển...


Four cases illustrate their argument: Britain, Argentina, Singapore, and South Africa. In nineteenth-century Britain, Acemoglu and Robinson argue, democracy consolidated because the class differences were relatively small (try telling that to Dickens), and the elites simply decided to accept the citizens’ policy preferences. In Argentina, inequality was higher and the costs of repression lower, so that democracy emerged but failed to consolidate: Cycles of democratization and repression result. In Singapore, low inequality and a low cost of repression preclude democracy: Rational citizens perceive that the struggle is not worth the trouble. In South Africa, finally, the authors argue that democratization occurred because the country became more egalitarian after the 1970s, lowering the cost to the white elites of conceding the vote to nonwhites.


Bốn trường hợp minh họa cho lập luận của họ: Anh quốc, Argentina, Singapore, và Nam Phi. Acemoglu và Robinson lập luận rằng nên dân chủ Anh quốc trong thế kỷ thứ mười chín được vững chắc vì sự khác biệt về giai cấp tương đối nhỏ (hãy thử nói thế với Dickens đi nhé), và tầng lớp tinh hoa chỉ đơn giản quyết định chấp nhận các ưu đãi về chính sách của công dân. Ở Argentina, sự bất bình đẳng cao hơn và phí tổn của sự đàn áp thấp hơn, do đó, dân chủ có nổi lên nhưng không được vững chắc: hậu quả là các chu kỳ của dân chủ và đàn áp. Tại Singapore, bất bình đẳng thấp và một chi phí đàn áp đã ngăn cản dân chủ: các công dân hiểu biết nhận thức được rằng đấu tranh là rắc rối và không đáng. Cuối cùng, ở Nam Phi, các tác giả lý luận rằng dân chủ đã xảy ra vì nước này đã trở nên bình đẳng sau những năm 1970, khiến đã giảm gánh nặng cho các tầng lớp tinh hoa da trắng thừa nhận cuộc bầu cử cho những người da màu.


This model implies and requires certain relationships in the data... [But] Acemoglu and Robinson’s theory... runs afoul of many cases they do not discuss. For example, India is a highly unequal yet stable democracy, for which no place exists in their model. Scandinavia, barely mentioned here, is more egalitarian than Britain (or Singapore), yet stably democratic. The collapse of communism in Eastern Europe is another problem, as the low inequality of those countries should have repressed the desire for democracy, but obviously it didn’t.


Mô hình này hàm ý và đòi hỏi đến một số quan hệ nhất định trong các dữ liệu... [Nhưng] lý thuyết của Acemoglu và Robinson... cứ đâm bổ vào nhiều trường hợp họ không thảo luận đến. Ví dụ như Ấn Độ là một nước rất bất bình đẳng nhưng dân chủ ổn định, lại không có vị trí trong mô hình của họ. Scandinavia, hầu như không hề được đề cập đến, là bình đẳng hơn so với Anh quốc (hoặc Singapore), nhưng vẫn có dân chủ ổn định. Sự sụp đổ của cộng sản ở Đông Âu là một vấn đề khác, khi sự bất bình đẳng thấp của các quốc gia này lẽ ra phải đàn áp những khát vọng về dân chủ, nhưng rõ ràng là đã không như thế.


Yes, sometimes the initiation of elections can be an elite concession to economic pressure from below. But... Although they assemble facts prodigiously, one must unpleasantly conclude that when it comes to choosing the crucial ones, they have cherry-picked and also sometimes plucked "data" from thin air, in the service of selling an idea that is not so much wrong as it is far too simple. Acemoglu and Robinson’s single-minded dedication to their idea is manifest in the last two-thirds of this book, which are given over to game-theoretic models, presented in mathematical form. The models are of rational social choice–the decision, by "elites" and "citizens," between dictatorship" and "democracy." They are statements of pure theory...


Đúng, đôi khi sự khởi đầu của những cuộc bầu cử có thể là một nhượng bộ của thành phần ưu tú từ áp lực kinh tế bên dưới. Nhưng... Trong công việc chào bán một tư tưởng không sai lầm và không đơn giản lắm, mặc dù phải lắp ráp các sự kiện với nhau một cách phi thường, người đọc phải khó chịu mà kết luận rằng khi nói đến việc lựa chọn những điều hệ trọng, họ đã chọn lựa kỹ càng và cũng đôi khi còn ngắt lấy các "dữ liệu" từ chỗ không có. Cống hiến có một mục đích duy nhất của Acemoglu và Robinson cho tư tưởng của họ được thể hiện trong hai phần ba cuối của cuốn sách này, vốn được đưa ra trên các mô hình về lý thuyết trò chơi, trình bày dưới hình thức toán học. Các mô hình là những lựa chọn xã hội hợp lý- quyết định của giới "tinh hoa" và các "công dân" giữa các chế độ độc tài "và "dân chủ". Chúng là những phán đoán có tính thuần tuý lý thuyết ...


Work of this kind... is not so much incomprehensible as pointless. It actually isn’t incomprehensible, if you work hard enough, but the symbols are empty, and the description is not of a real society, but of an institutional vacuum, uninhabited by actual human beings, untracked by actual data. No measurement will ever test the theory...


Công trình loại này... không có quá nhiều điều không thể hiểu được đến nỗi trở nên vô nghĩa. Thực ra, nó không phải là loại không thể hiểu được, nếu ta chịu khó đọc, nhưng các biểu tượng của nó là rỗng tuếch và các mô tả của nó không phải là mô tả của một xã hội có thực nhưng là của một thể chế chân không, một nơi chốn không có người ở, không kiểm tra được bởi các dữ liệu có thực. Không có đo lường nào từng kiểm tra loại lý thuyết này ...


And yet, Economic Origins of Dictatorship and Democracy will be heavily cited, lavishly praised, and assigned to advanced seminars in the better graduate schools. Too bad. For it isn’t about democracy. It’s about a cardboard caricature... In sketching their caricature, Acemoglu and Robinson strip the democratic ideal of substantial and also of ethical content...


Chưa hết, cuốn Các Nguồn gốc Kinh tế của Độc tài và Dân chủ sẽ còn được trích dẫn rất nhiều, được khen ngợi một cách hào phóng và được giao cho các hội thảo cao cấp trong các trường đại học tốt hơn. Thật tệ. Bởi vì nó không phải nói về dân chủ. Nó thuộc về một bức tranh biếm họa... Trong khi vẽ lên bức biếm họa của mình, Acemoglu và Robinson đã tước bỏ những lý tưởng dân chủ có thực và cả các nội dung đạo đức...


Is there an alternative? If so, what would it look like? It would feature quantitative precision, married to knowledge of history, command of evidence, narrative skill, and to a fresh and important idea. Beyond this, it would give new insight into the success of democratic systems and also into the reasons they sometimes decay. As a bonus, it might help those of us predisposed to favor democracy on ethical grounds to understand that our sentiments might have a material foundation, and therefore the reasons for the loyalty we instinctively feel. It would, in other words, have many of the properties found in James MacDonald’s A Free Nation Deep in Debt.


Có thay thế nào khác không? Nếu có, trông nó sẽ ra làm sao? Nó sẽ đề cao sự chính xác của số lượng, kết hôn với các kiến thức lịch sử, chỉ đạo những chứng cứ, kỹ năng kể chuyện cùng một ý tưởng mới mẻ và quan trọng. Hơn cả thế, nó sẽ đưa ra cái nhìn mới về sự thành công của các hệ thống dân chủ và cả những lý do tại sao đôi khi chúng bị suy tàn. Và, như một quà tặng thêm, nó có thể khiến những người trong chúng ta mắc phải thiên kiến đến việc ủng hộ dân chủ trên các căn bản đạo đức để hiểu rằng tình cảm của chúng ta có thể có một cơ sở vật chất, và từ đó đến những lý do cho lòng trung thành của chúng ta theo bản năng cảm nhận. Nói một cách khác, nó sẽ có nhiều tính chất được tìm thấy trong Một Đất nước Tự do Chìm đắm trong Nợ nần của James MacDonald.


This book begins with Moses, ends with World War II, and covers just about every important development in public finance in between. Yet, for all of its historical sweep, MacDonald offers a simple, stunning thesis: Democracy arises from public debt.


Cuốn sách này bắt đầu với Moses, kết thúc bằng Đệ nhị Thế chiến và phần giữa chỉ bao gồm mọi phát triển quan trọng trong tài chính công. Tuy nhiên, đối với tất cả sự càn quét của lịch sử, MacDonald mang đến một luận án đơn giản tuyệt đẹp: Dân chủ phát sinh từ nợ công.


For MacDonald, a British former investment banker,... the progress of democracy is the expansion of the franchise, a word with two meanings: its present one of the right to vote and an ancient one meaning freedom from direct taxation. In turn, public debt ...[and] the institutions of finance, missing from Acemoglu and Robinson’s economics, suddenly take on the pivotal role...


Đối với MacDonald, một nhà cựu đầu tư về ngân hàng... tiến bộ của nền dân chủ là sự mở rộng của nhượng quyền thương mại, một từ có hai nghĩa: một ý nghĩa về quyền được bỏ phiếu và một ý nghĩa cổ xưa về việc không bị đánh thuế trực tiếp. Đổi lại, công nợ... [và] các tổ chức tài chính, bị thiếu vắng từ các nền kinh tế của Acemoglu và Robinson lại đột nhiên đóng một vai trò quan trọng...


It’s a simple but compelling argument. States exist to make war; those who win survive. Public credit is a powerful weapon; states that can borrow win wars. And so even narrow democracies, rooted in parliaments going back to the Middle Ages, have an evolutionary advantage over absolute monarchies, for the king’s credit is always poor.


Đó là một lý luận đơn giản nhưng gò ép. Các nhà nước tồn tại để tạo nên chiến tranh, những người giành được chiến thắng để tồn tại. Niềm tin công chúng là một vũ khí mạnh mà các nưóc có thể vay mượn để giành chiến thắng cuộc chiến tranh. Và trở lại từ thời trung cổ, ngay cả các nền dân chủ hạn hẹp vẫn có một lợi thế tiến hóa đối với chế độ quân chủ tuyệt đối, để tạo nên niềm tin luôn nghèo túng cho các nhà vua.


MacDonald pursues this story from Athens, where citizens would sacrifice their fortunes to the armies and navies when required, through the republics of Venice, Florence, and Genoa, whose citizen-creditors developed the first full-fledged public financial systems, and onward to England, France, and Spain in the age of conquest. He contrasts the strength of Anglo-Dutch finance with the repeated bankruptcies of Habsburgs and Bourbons–state finance by calculated confiscation, compounded with a privatized revenue system that deprived the crown of revenue while creating a hated class of tax farmers. It is no coincidence that Britain slowly became democratic, while revolution followed the French default of 1788.


MacDonald theo đuổi câu chuyện này từ Athens, nơi người công dân, khi cần đã hy sinh tài sản của mình cho quân đội và lực lượng hải quân thông qua các nền cộng hòa Venice, Florence và Genoa, của các nhà vay nợ công dân từng phát triển thành những hệ thống tài chính công đầy đủ đầu tiên, đi đến các nước Anh , Pháp Tây Ban Nha trong thời đại của các cuộc chinh phục. Ông tương phản sức mạnh tài chính Anh-Hà Lan với các cuộc khánh tận về tài chính lặp đi lặp lại của Habsburgs và Bourbon - loại nhà nước đỡ đầu bằng sự sung công có tính toán, cộng với một hệ thống doanh thu tư nhân hóa vốn đã bị tước mất vương miện doanh thu trong khi tạo ra một giai cấp thù hận của các nông dân bị đánh thuế. Không phải ngẫu nhiên mà dần dần Anh Quốc trở thành dân chủ trong khi cuộc cách mạng đã theo sau cách mạng Pháp năm 1788.


Across the Atlantic, MacDonald traces the maturation of American public credit in the Revolutionary and Civil Wars, as well as the struggles between soft and hard money in the years following...

Băng qua khu vực Đại Tây Dương, MacDonald theo dấu sự trưởng thành của lòng tin công chúng Mỹ trong cuộc chiến tranh cách mạng và dân sự, cũng như các cuộc đấu tranh giữa đồng tiền mềm và cứng trong những năm tiếp theo...

Democratic finance differs from totalitarian not because it is easy, but because it is open. Holding the liabilities of the state directly, citizen-creditors understand that they form an essential part of private financial wealth. They take a direct interest in their government and its financial affairs...


Tài chính dân chủ khác với chế độ toàn trị không phải vì nó dễ dàng mà bởi vì nó rộng mở. Nắm giữ trực tiếp các trách nhiệm của nhà nước, người chủ nợ-công dân hiểu được rằng họ là một phần thiết yếu của sự thịnh vượng tài chính tư nhân. Họ có được một quyền lợi trực tiếp trong chính phủ và trong các công việc tài chính của chính phủ...


Mass democracy emerged following World War I precisely because this was the first war to be financed almost fully by the direct sale of government bonds to the public. All the Great War combatants sold bonds with zeal, and at war’s end all (except bankrupt and revolutionary Russia) found themselves in debt to nearly every household in their lands. Universal suffrage had to follow; you cannot ignore your bankers, even when there are millions of them. World War II repeated and deepened the experience, and in the aftermath popular democracy reached its zenith throughout the West.

Dân chủ quần chúng xuất hiện sau Đệ Nhất Thế chiến chính xác bởi vì đây là cuộc chiến đầu tiên được tài trợ gần như đầy đủ từ nguồn bán trực tiếp trái phiếu của Chính phủ đến công chúng. Tất cả chiến sĩ của cuộc Đại chiến bán các trái phiếu với lòng nhiệt thành, và khi chiến tranh kết thúc tất cả (trừ nước Nga cách mạng và các trường hợp phá sản) đều thấy chính mình chìm đắm trong nợ nần gần như đến từng hộ gia đình trong các vùng đất của họ. Quyền phổ thông đầu phiếu đã phải xảy ra, bởi vì bạn không thể phớt lờ các chủ nhà băng của mình, ngay cả khi số đó có đến hàng triệu người. Đệ nhị Thế Chiến lập lại và đào sâu những kinh nghiệm, và kết quả là các nền dân chủ phổ biến đã đạt đến đỉnh cao của nó ở phương Tây.


A beauty of MacDonald’s idea is that it can be tested against situations he doesn’t discuss. Thus the democratic decolonization of India fits: It occurred after India had become a large war-time creditor of Britain. And the struggle for democracy in Latin America is complicated by foreign debt, easily analyzed as an external electorate of enormous power–one in obvious economic conflict with the voters who, at best, only hold the internal debt...


Một vẻ đẹp của tư tưởng MacDonald là nó có thể được thử thách với các trường hợp mà ông ta không từng thảo luận đến. Do đó, công cuộc phi thực dân hóa dân chủ của Ấn Độ phù hợp: Nó xảy ra sau khi Ấn Độ đã trở thành một chủ nợ lớn lao trong thời chiến của nước Anh. Và cuộc đấu tranh cho dân chủ tại Mỹ Latinh bị phức tạp bởi nợ nước ngoài, dễ dàng để được phân tích như là một cử tri bên ngoài của một quyền lực cực lớn - một quyền lực trong mối xung đột kinh tế rõ ràng với các cử tri, vốn trong điều kiện tốt nhất, chỉ cầm giữ được món nợ nội bộ...


Finally, MacDonald’s financial perspective helps explain the relationship between democracy and economic development. The most democratic states are not only powerful; they are rich. They are richer than the monarchies they succeeded and also than the communist states with whom... they competed. Why? Surely the simplest answer lies in their ability and willingness to mobilize public debt for development as well as for war. Democracies yield higher incomes not because of vulgar redistribution, which cannot distinguish them from communism, but because they alone can master the great Keynesian financial tools required for the achievement of full employment and national construction on the grand scale.


Cuối cùng, quan điểm tài chính của MacDonald giúp giải thích mối quan hệ giữa dân chủ và phát triển kinh tế. Các quốc gia dân chủ nhất không chỉ mạnh mẽ, họ còn rất giàu có. Họ giàu có hơn chính chế độ quân chủ mà họ tiếp quản và hơn cả các nước cộng sản mà... họ từng thi đấu. Tại sao? Chắc chắn câu trả lời đơn giản nằm trong khả năng và sự sẵn sàng của họ để huy động các khoản nợ công nhằm mục đích phát triển cũng như để chuẩn bị cho chiến tranh. Các nền dân chủ mang lại năng suất thu nhập cao hơn không phải vì cuộc tái phân phối thô bỉ, vốn không thể phân biệt được trong chủ nghĩa cộng sản, mà còn là vì họ có thể tự mình nắm vững được các công cụ tài chính Keynes tuyệt vời vốn cần thiết cho việc đạt được toàn bộ sức làm việc và công cuộc xây dựng đất nước trên quy mô lớn.


Given the simplicity and power of this argument, one reads the epilogue of this great book with surprise and sorrow. In MacDonald’s view, it’s all over. In the nuclear age, deficits and bond drives on the world-war scale are history, and the American citizenry has lost its pride of place as creditor of the American state.
Căn cứ vào sự đơn giản và sức mạnh của lập luận, ta sẽ đọc lời bạt của cuốn sách vĩ đại này với bất ngờ và đau khổ. Theo quan điểm của MacDonald, tất cả sẽ là hết. Trong thời đại hạt nhân, thâm hụt ngân sách và trái phiếu sẽ chi phối trên phạm vi chiến tranh và lịch sử thế giới. Và toàn thể công dân Mỹ đã mất niềm tự hào là người chủ nợ của nhà nước Mỹ của mình.


Today, financial intermediaries hold about 37 percent of U.S. public debt; Japan and China, along with other countries, now hold about 30 percent. The proportion of U.S. debt owned directly by Americans has fallen to below 10 percent; in 1945 (when the debt was more than twice as large in relation to GDP as now) citizen-creditors just about held it all. He concludes that the link is broken and "for all practical purposes, the venerable marriage between public credit and democratic government, so vital a factor in the history of the world, has been dissolved."
Ngày nay, giới trung gian tài chính nắm giữ khoảng 37 phần trăm nợ công của Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc, cùng các nước khác hiện đang nắm giữ khoảng 30 phần trăm. Tỷ lệ nợ của Mỹ thuộc sở hữu trực tiếp của người Mỹ đã giảm xuống dưới 10 phần trăm; năm 1945 (khi các khoản nợ đã được nhiều hơn gấp hai lần lớn liên quan đến GDP như bây giờ) giới công dân chủ nợ gần như nắm giữ tất cả. Ông kết luận rằng mối liên kết đã bị gãy đổ và "vì tất cả các mục đích thực tế, cuộc hôn nhân đáng kính giữa lòng tin công chúng và chính phủ dân chủ, một yếu tố hết sức quan trọng trong lịch sử của thế giới đã bị tan rã"


Translated by Lê Quốc Tuấn


http://economistsview.typepad.com/economistsview/2006/09/economics_and_d.html