MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Thursday, January 26, 2012

Commentary: Thoughts on the “Rise of China” Bình luận: Suy nghĩ về "Sự trổi dậy của Trung Quốc"


Commentary: Thoughts on the “Rise of China”

Bình luận: Suy nghĩ về "Sự trổi dậy của Trung Quốc"

By Minxin Pei

Minxin Pei

June 25, 2011

25 Tháng sáu, 2011

In the early 1980s, China was just beginning to open to the outside world. Its per capita income was under US$500, and it did only a modest amount of international trade with the rest of the world. Today, the Chinese economy has been thoroughly transformed. It’s the world’s second-largest economy, largest exporter (by volume), and its per capita income has risen above US$4,000. I recall that in the early 1980s, the most optimistic forecast of China’s growth would predict 7 percent per annum. In fact, China’s growth over the last three decades has been about 10 percent per year.

Đầu những năm 1980, Trung Quốc đã bắt đầu mở cửa với thế giới bên ngoài. Thu nhập bình quân đầu người dưới 500 đô la Mỹ, và nó chỉ là một con số khiêm tốn trong thương mại quốc tế với phần còn lại của thế giới. Ngày nay, nền kinh tế Trung Quốc đã được chuyển đổi triệt để. Đó là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, xuất khẩu lớn nhất (theo khối lượng), và thu nhập trên đầu người của nó đã tăng lên trên 4.000 USD. Tôi nhớ lại rằng vào những năm 1980, các dự báo lạc quan nhất về sự tăng trưởng của Trung Quốc cũng chỉ ở mức 7% mỗi năm. Thế mà, trong thực tế, tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc trong ba thập kỷ qua khoảng 10% mỗi năm.

Without surprise, China’s economic success has now spawned a cottage industry specializing in explaining the Chinese economic miracle. In Beijing, a debate is raging in the intellectual circles on the so-called China Model. It is not idle chatter among scholars. The stakes are, in fact, very high. The essence of this debate is whether China has pioneered a unique model of development that challenges some of the basic assumptions about the connection between political regimes, economic institutions, and developmental success.

Không có gì ngạc nhiên, thành công kinh tế của Trung Quốc đã tạo ra một ngành thủ công chuyên giải thích các phép lạ kinh tế Trung Quốc. Tại Bắc Kinh, một cuộc tranh luận đang khuấy động giới trí thức về cái gọi là Mô hình Trung Quốc. Nó không phải là câu chuyện nhàn đàm giữa các học giả. Tầm quan trọng, trên thực tế, rất lớn. Bản chất của cuộc tranh luận này là liệu Trung Quốc đã đi tiên phong trong một mô hình phát triển độc đáo dám thách thức một số các giả thuyết cơ bản về quan hệ giữa chế độ chính trị, định chế kinh tế, và thành công phát triển.

Inside China, opinions on this issue are polarized. Liberals insist that the Chinese experience in the last decades has validated the Western model: China’s rapid economic development has been made possible by liberalization, marketization, and integration with the world economy. China’s autocratic political system, if anything, has been a drag on the Chinese development. Without the assorted pathologies of such a system, China’s economic growth would have been different in terms of the quality of growth and social justice. In other words, China has made its impressive economic growth not because of, but in spite of, its one-party regime.

Bên trong Trung Quốc, ý kiến ​​về vấn đề này đang phân cực. Người theo chủ nghĩa tự do nhấn mạnh rằng kinh nghiệm của Trung Quốc trong những thập kỷ qua đã xác nhận mô hình phương Tây là đúng: phát triển kinh tế nhanh chóng của Trung Quốc đã có được nhờ tự do hóa, thị trường hóa và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Hệ thống chính trị độc đoán của Trung Quốc, dù gì đi nữa, cũng kéo lùi sự phát triển của Trung Quốc. Nếu không có các loại bệnh lý của hệ thống như vậy, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc lẽ ra đã khác đi về chất lượng tăng trưởng và công bằng xã hội. Nói cách khác, Trung Quốc đã tạo ra tăng trưởng kinh tế ấn tượng không phải nhờ, mà là bất chấp chế độ một đảng của nó.

Chinese conservatives and nationalists, of course, see things differently. They believe that China has indeed found a new model that can provide an alternative to the Western liberal democratic model of development. In their view, the essence of the China model is a strong state that is capable of mobilizing massive resources in catching up with the advanced West. In this process, democracy is not only unnecessary, but positively harmful because it will unduly constrain the hand of the state and hamper its ability to allocate resources to high-priority investment projects and make certain social groups sacrifice more so that society as whole becomes better-off. In this reconstructed China Model, even free market principles can be violated.

Những người theo chủ nghĩa bảo thủ và chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc, tất nhiên, nhìn thấy sự việc theo cách khác. Họ tin rằng Trung Quốc đã thực sự tìm thấy một mô hình mới có thể làm nên một mô hình thay thế cho mô hình phát triển kiểu dân chủ tự do của phương Tây. Theo quan điểm của họ, thực chất của mô hình Trung Quốc là một nhà nước mạnh mẽ có khả năng huy động nguồn lực lớn để bắt kịp với phương Tây tiên tiến. Trong quá trình này, dân chủ không những không cần thiết, mà rõ ràng có hại vì nó sẽ hạn chế quá mức vai trò của nhà nước và cản trở khả năng của nhà nước trong việc phân bổ nguồn lực cho các dự án đầu tư ưu tiên cao và làm cho một số nhóm xã hội phải hy sinh nhiều hơn để toàn xã hội trở nên sung túc hơn. Trong mô hình Trung Quốc được tái cấu trúc, ngay cả các nguyên tắc thị trường tự do cũng có thể bị vi phạm.

The purists of the China Model regard free market principles as inapplicable to late-developers such as China because to follow such principles would mean submitting to Western technological and economic superiorities forever. Pointing to Japan and South Korea, two successful East Asian countries that have repeatedly violated free-market principles in their economic development, Chinese conservatives and nationalists argue that state intervention in the economy is not harmful, but critical in overcoming the inherent disadvantages of a late-developer.

Những người theo chủ nghĩa thuần túy về Mô hình Trung Quốc cho rằng nguyên tắc thị trường tự do không áp dụng được cho các nước phát triển muộn như Trung Quốc bởi vì tuân theo những nguyên tắc đó có nghĩa chịu thua tính ưu việt về công nghệ và kinh tế phương Tây mãi mãi. Hãy xem Nhật Bản và Hàn Quốc, hai nước Đông Á thành công, thì cũng đã nhiều lần vi phạm các nguyên tắc thị trường tự do trong phát triển kinh tế của họ; những người bảo thủ và dân tộc chủ nghĩa Trung Quốc cho rằng sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế không những không có hại, mà còn rất quan trọng trong việc khắc phục những nhược điểm vốn có của một nước phát triển muộn.

If you think such a debate is about some arcane theory of economic and political development, you would be very wrong. The debate on the China Model occurred in a special political context. So the Chinese government attached a great deal of political significance to this debate.

Nếu bạn nghĩ rằng cuộc tranh luận này bàn về một lý thuyết phức tạp nào đó về phát triển kinh tế và chính trị, thì bạn đã lầm. Cuộc tranh luận về mô hình Trung Quốc xảy ra trong một bối cảnh chính trị đặc biệt. Vì vậy, chính phủ Trung Quốc gắn rất nhiều ý nghĩa chính trị vào cuộc tranh luận này.

Specifically, the China Model debate takes place when China’s overall political situation is at perhaps its most conservative point since the Tiananmen crackdown in 1989. The authorities have tightened control over the media, the Internet, civil society groups, and even academic discourse. Driven both by confidence and insecurity, the ruling Chinese Communist Party apparently attempted to counter Western influence not merely by political repression, but also by an ideological counter-offensive. Senior Chinese leaders have publically called for the rejection of universal values, such as democracy, human rights, and free markets.

Cụ thể, cuộc tranh luận Mô hình Trung Quốc diễn ra khi tình hình chính trị tổng thể của Trung Quốc có lẽ đang tại là điểm bảo thủ nhất kể từ khi cuộc đàn áp Thiên An Môn vào năm 1989. Các nhà chức trách đã thắt chặt kiểm soát các phương tiện truyền thông, internet, các nhóm xã hội dân sự, và thậm chí bàn luận học thuật. Bị thúc đẩy bởi niềm tin vào sự bất ổn, Đảng Cộng sản Trung Quốc cầm quyền dường như đã cố gắng để chống lại ảnh hưởng của phương Tây không chỉ đơn thuần bằng đàn áp chính trị, mà còn bằng đòn phản công về hệ tư tưởng. Lãnh đạo cấp cao Trung Quốc đã công khai kêu gọi từ chối các giá trị phổ quát, chẳng hạn như nền dân chủ, nhân quyền, và thị trường tự do.

How does the debate over the China Model fit into this?

Làm thế nào để cuộc tranh luận về mô hình Trung Quốc phù hợp với điều này?

The answer is quite self-evident. If Beijing can construct an intellectually coherent narrative of China’s economic rise, it will become a powerful antidote to so-called “Western universal values”. As we all know, China has attained thirty years of double-digit economic growth without having democracy, the rule of law, genuine political rights for its people, or a full market economy. In East Asia, only South Korea, Taiwan and Singapore accomplished comparable economic successes under autocratic rule. But given China’s huge size and global stature, if its government can make an intellectually convincing case for its autocratic statist developmental model, then the Communist Party’s rule will find a new source of ideological legitimacy. That’s why the debate over the China Model is so consequential.

Câu trả lời khá là hiển nhiên. Nếu Bắc Kinh có thể xây dựng một câu chuyện mạch lạc về mặt trí tuệ về sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc, nó sẽ trở thành một liều thuốc giải độc mạnh mẽ đối với cái gọi là "giá trị phổ quát của phương Tây". Như chúng ta đều biết, Trung Quốc đã đạt được ba mươi năm tăng trưởng kinh tế hai con số mà không cần có dân chủ, các quy định của pháp luật, các quyền chính trị thực sự cho người dân, hoặc một nền kinh tế thị trường đầy đủ. Ở Đông Á, chỉ có Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore đã thực hiện thành công kinh tế như thế dưới sự cai trị độc đoán. Nhưng với kích thước khổng lồ của Trung Quốc và tầm vóc toàn cầu, nếu chính phủ của nó có thể sáng tạo một trường hợp thuyết phục về mặt trí tuệ cho mô hình phát triển có kiểm soát độc đoán của nó, thì Đảng Cộng sản cầm quyền sẽ tìm thấy một nguồn mới của tính hợp pháp về ý thức hệ. Đó là lý do tại sao các cuộc tranh luận về mô hình Trung Quốc này lại tự mãn đến thế.

The stylized version of the China Model, if one can piece together the main arguments that have been advanced from various proponents, attributes China’s economic success to the following three factors:

Phiên bản cách điệu của Mô hình Trung Quốc, nếu người ta có thể lắp ghép các luận điểm chính đã được những người ủng hộ khác nhau đưa ra, cho rằng thành công kinh tế của Trung Quốc là do ba yếu tố sau đây:

(1) The effectiveness of a one-party state. In nearly all developing countries, democratic regimes are less capable of mobilizing the resources than a one-party state in accomplishing critical developmental goals, such as accumulating physical capital and building infrastructure. A one-party state is also unconstrained by multi-party politics, judicial oversight, and pressures from civil society in overcoming societal opposition to the implementation of its policies that may be socially costly but developmentally imperative. (A good example is the forced evictions of urban residents from their homes in order to build wider streets or more profitable commercial real estate).

(1) Tính hiệu quả của một nhà nước độc đảng. Trong gần như tất cả các nước đang phát triển, chế độ dân chủ ít có khả năng huy động các nguồn tài nguyên hơn so với một nhà nước độc đảng để hoàn thành các mục tiêu phát triển quan trọng, chẳng hạn như tích lũy vốn vật chất và xây dựng cơ sở hạ tầng. Một nhà nước độc đảng cũng không bị giới hạn bởi đa đảng chính trị, giám sát tư pháp, và áp lực từ xã hội dân sự trong việc khắc phục sự chống đối xã hội để thực hiện các chính sách mà xã hội có thể trả giá nhiều, nhưng là điều bắt buộc phải làm để phát triển. (Một ví dụ tốt là cưỡng bức cư dân đô thị từ bỏ nhà cửa của họ để xây dựng đường phố rộng hơn hoặc bất động sản thương mại có lợi hơn).

(2) Meritocracy. Based on this line of reasoning, China may not have democracy, but its ruling party has instituted strict meritocracy in selecting its officials. In addition to requiring officials to be well educated, the Chinese government also evaluates the performance of local officials on the basis of the GDP growth of their jurisdictions. To make sure that its future leaders are well rounded, the party frequently rotates the more promising members of its cadres to different positions of responsibility (such as large state-owned enterprises, central government ministries, and provincial governments). The result has deeply impressed foreign businessmen, who marvel at the smoothness, credentials, and broad-ranging executive experience of Chinese officials.

(2) Chủ nghĩa nhân tài. Căn cứ vào dòng lý luận này, thì Trung Quốc không thể có dân chủ, nhưng đảng cầm quyền của nó đã thiết lập chủ nghĩa nhân tài nghiêm ngặt trong việc lựa chọn cán bộ. Ngoài việc yêu cầu các quan chức được giáo dục tốt, chính phủ Trung Quốc cũng đánh giá việc thực hiện của các quan chức địa phương trên cơ sở của sự tăng trưởng GDP tại khu vực phụ trách của họ. Để đảm bảo rằng các nhà lãnh đạo tương lai hiểu biết toàn diện, đảng thường xuyên luân chuyển các thành viên hứa hẹn trong số các cán bộ của mình vào các vị trí trách nhiệm khác nhau (chẳng hạn như các doanh nghiệp nhà nước lớn, các Bộ, chính quyền trung ương và chính quyền cấp tỉnh). Kết quả đã gây ấn tượng sâu sắc cho các doanh nhân nước ngoài. Họ ngạc nhiên trước sự uyển chuyển, uy tín và kinh nghiệm điều hành rộng tầm của các quan chức Trung Quốc.

(3) Smart state intervention. State intervention in the economy is not always a bad thing. If anything, a developing country will not be able to catch up with advanced industrial economies unless its state plays a more prominent role in the economy and violates some of the textbook rules held sacrosanct by the West, such as state ownership of productive assets, repression of the financial system (to reduce the cost of capital), undervalued exchange rate (to make exports more competitive), and the use of industrial policy and trade protectionism to groom national champions.

(3) Sự can thiệp thông minh của nhà nước. Sự can thiệp của nhà nước trong nền kinh tế là không phải lúc nào cũng là một điều xấu. Dù gì đi nữa, một nước đang phát triển sẽ không thể bắt kịp với các có nền kinh tế công nghiệp tiên tiến, nếu nhà nước của nó không đóng một vai trò nổi bật hơn trong nền kinh tế và vi phạm một số quy tắc kinh điển được coi là bất khả xâm phạm ở phương Tây, chẳng hạn như sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất, trấn áp hệ thống tài chính (để giảm chi phí vốn), định giá thấp tỷ giá hối đoái (để làm cho xuất khẩu cạnh tranh hơn), và sử dụng các chính sách bảo hộ công nghiệp và thương mại để chuẩn bị cho các công ty vô địch quốc gia.

What is notable about this perhaps oversimplified China Model is that parts of it are grounded in China’s political and economic reality. It is undeniable that the Chinese state possesses unrivaled capacity to mobilize resources to achieve its top priorities. It is also true that, as a whole, Chinese cadres are much better educated and trained than their revolutionary predecessors. State intervention in the Chinese economy has not been an unmitigated disaster – as is often the case in other developing countries. On the contrary, if one looks at China’s export performance, trade surpluses, and massive foreign exchange reserves (and view them as signs of economic strengths), one may concede that such results would not have been possible without a strong hand of the state.

Điều đáng chú ý về Mô hình Trung Quốc có lẽ quá đơn giản hóa này là nó có cơ sở là thực tế chính trị và kinh tế của Trung Quốc. Không thể phủ nhận rằng nhà nước Trung Quốc sở hữu năng lực vô song để huy động các nguồn lực nhằm đạt được các ưu tiên hàng đầu của mình. Cũng đúng là, nhìn chung, toàn bộ cán bộ của Trung Quốc có học vấn tốt hơn và đào tạo nhiều hơn so với các cán bộ cách mạng tiền nhiệm của họ. Sự can thiệp của nhà nước trong nền kinh tế Trung Quốc không phải là một thảm họa không được giảm nhẹ - như thường xảy ra ở các nước đang phát triển khác. Ngược lại, nếu nhìn vào thành tích xuất khẩu của Trung Quốc, thặng dư thương mại, và dự trữ trao ngoại hối (và xem chúng như là dấu hiệu của sức mạnh kinh tế), thì người ta có thể thừa nhận rằng kết quả như vậy không có thể có được nếu thiếu bàn tay mạnh mẽ của nhà nước.

But the reality in China is far more complicated. The China Model reconstructed by the pro-government academics in China exaggerates the strengths of the current system and downplays the hidden costs of this developmental model. For instance, the capacity to mobilize resources is not always a positive quality because no one can guarantee that political leaders will not squander mobilized resources. Of the trillions of renminbi invested by the Chinese government, nobody knows how much is wasted on “image projects” – investments made for the sole purpose of making local officials look good in the eyes of their superiors. Anybody who has visited China must have seen such projects dot the Chinese landscape.

Nhưng thực tế ở Trung Quốc thì phức tạp hơn rất nhiều. Mô hình Trung Quốc được tái cấu trúc bởi các học giả ủng hộ chính phủ ở Trung Quốc thổi phồng sức mạnh của hệ thống hiện tại và giảm bớt các chi phí tiềm ẩn của mô hình này phát triển. Ví dụ, khả năng huy động các nguồn lực không phải là luôn luôn là một phẩm chất tích cực vì không ai có thể đảm bảo rằng các nhà lãnh đạo chính trị sẽ không lãng phí các nguồn lực được huy động. Trong số hàng nghìn tỷ nhân dân tệ vốn đầu tư của chính phủ Trung Quốc, không ai biết bao nhiêu là lãng phí vào các "dự án tạo hình ảnh” - đầu tư được thực hiện với mục đích duy nhất của quan chức địa phương để được nhìn nhận tốt trong con mắt của cấp trên. Bất cứ ai đã đến thăm Trung Quốc phải có nhìn thấy các dự án như vậy điểm xuyết cho cảnh quan của Trung Quốc.

Meritocracy may sound an attractive alternative to democracy. But again, in Chinese reality, it is not so easy to determine what exactly meritocracy means. Using GDP performance data to measure it is not always reliable since local officials can game the system by borrowing heavily and investing recklessly in potentially useless projects at the beginning of their appointment. Their GDP numbers may look excellent but they have actually done more harm than good. Even apparently objective measurements of merits have become unreliable in China today. Take academic degrees, for example. Since an advanced degree gives an aspiring official a competitive edge, a large number of Chinese officials now have “Ph.D.s” affixed to their titles. But if you look more carefully, you’d find that they have earned their degrees as part-time students. The degrees awarded to them do not mean much. The most devastating evidence that meritocracy is in trouble in China is the practice of buying government appointments with bribes. Chinese official press is full of stories of local officials paying huge bribes in order to secure promotions and cushy appointments. This practice should not exist if China genuinely has meritocracy.

Chủ nghĩa nhân tài nghe có vẻ là một thay thế hấp dẫn đối với dân chủ. Nhưng một lần nữa, trong thực tế Trung Quốc, không dễ dàng để xác định chính xác chủ nghĩa nhân tài có nghĩa là gì. Sử dụng dữ liệu hiệu suất GDP để đo lường nó không phải luôn luôn đáng tin cậy vì các quan chức địa phương có thể chơi khăm hệ thống bằng cách vay mượn rất nhiều và đầu tư thiếu thận trọng vào các dự án có khả năng vô dụng ngay từ khi họ được bổ nhiệm. Con số GDP của họ nhìn có vẻ tuyệt vời nhưng họ thực sự làm hại nhiều hơn làm lợi. Ngay cả các phép đo khách quang rõ ràng về công trạng cũng đã trở thành không đáng tin cậy ở Trung Quốc ngày nay. Lấy bằng cấp, ví dụ. Kể từ khi có bằng cấp cao cho một quan chức tham vọng một lợi thế cạnh tranh, một số lượng lớn các quan chức Trung Quốc hiện nay có "tiến sĩ" gắn liền với các chức danh của họ. Nhưng nếu bạn nhìn kỹ lưỡng hơn, bạn sẽ thấy rằng họ đã có được bằng cấp của họ như sinh viên bán thời gian. Bằng cấp trao cho họ không có mấy ý nghĩa. Bằng chứng có tính tàn phá nhất cho thấy chủ nghĩa nhân tài đang gặp rắc rối ở Trung Quốc là thực tế mua quan bán chức trong chính phủ bằng cách hối lộ. Báo chí chính thức của Trung Quốc đầy dẫy những câu chuyện về các quan chức địa phương trả các khoản tiền hối lộ khổng lồ để đảm bảo thăng chức và bổ nhiệm theo ý thích. Thực tế này không nên tồn tại nếu Trung Quốc thực sự đã thực hiện chủ nghĩa nhân tài.

Finally, whether state intervention in the Chinese economy is responsible for its sustained rapid growth is impossible to determine. Technically speaking, the question is too big to be addressed here. But what is clear is that such intervention is not without cost. China may have achieved some of its prized objectives, such as international competitiveness, job creation, and global economic status. But there is no free lunch. State intervention carries significant costs that must be borne by someone. In the case of China, such costs are in the form of severe macroeconomic imbalances, such as low consumption and slow wage growth. In other words, while the Chinese state has done well, the average Chinese citizen has done much less well.

Cuối cùng, liệu sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế Trung Quốc có phải là nguồn gốc của tăng trưởng nhanh chóng và bền vững của nó không vẫn chưa thể xác định. Về mặt kỹ thuật, câu hỏi là quá lớn để được giải quyết ở đây. Nhưng điều rõ ràng là những can thiệp này không phải không trả giá. Trung Quốc có thể đạt được một số mục tiêu được đánh giá cao của nó, chẳng hạn như khả năng cạnh tranh quốc tế, tạo việc làm, và địa vị kinh tế toàn cầu. Nhưng không có bữa ăn miễn phí nào. Nhà nước can thiệp gây ra chi phí đáng kể mà phải được một ai đó chi trả. Trong trường hợp của Trung Quốc, chi phí đó nằm ở dạng mất cân bằng kinh tế vĩ mô nghiêm trọng, chẳng hạn như tiêu thụ thấp và tăng trưởng tiền lương chậm. Nói cách khác, trong khi nhà nước Trung Quốc giàu lên, thì công dân trung bình của Trung Quốc nghèo đi.

About the Author

Minxin Pei is Tom and Margot Pritzker ’72 Professor of Government, Claremont McKenna College.

Giới thiệu về Tác giả

Minxin Pei là Giáo sư Tom và Margot Pritzker '72 về Chính phủ học, đại học Claremont McKenna.

http://asiaquarterly.com/2011/06/25/commentary-thoughts-on-the-%E2%80%9Crise-of-china%E2%80%9D/

The South China Sea is not China's Sea Biển Nam Trung Hoa không phải là biển Trung Hoa


The South China Sea is not China's Sea

Biển Nam Trung Hoa không phải là biển Trung Hoa

Huy Duong

Duong Danh Huy

Wed, 10/05/2011

2011/10/05

It would be rather absurd if England were to try to claim sovereignty over most of the English Channel, Iran the Persian Gulf, Thailand the Gulf of Thailand, Vietnam the Gulf of Tonkin, Japan the Sea of Japan, or Mexico the Gulf of Mexico.

Hẳn là khá vô lý nếu nước Anh đã cố tuyên bố chủ quyền phần lớn Eo biển Anh (Eo biển Măng-sơ), Iran Vịnh Ba Tư, Thái Lan, Vịnh Thái Lan, Việt Nam Vịnh Bắc Bộ, Nhật Bản, Biển Nhật Bản, và Mexico Vịnh Mexico.

But that is exactly what China is trying to do by claiming most of the South China Sea, a body of water about the size of the Mediterranean Sea bordered by nine nations plus Taiwan, and the main gateway between the Pacific and the Indian Ocean.

Nhưng đó chính xác là những gì Trung Quốc đang cố gắng làm bằng cách tuyên bố chủ quyền phần lớn Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông), một vùng nước vcó kích thước bằng biển Địa Trung Hải, bao quanh bởi chín nước kể cả Đài Loan, và là cửa ngõ chính giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.

Although there are long-standing territorial disputes over the Paracel Islands and Spratly Islands, the biggest security risk for the South China Sea is not the conflicting claims over these tiny islands and rocks but China's outright claim to this strategically important body of water.

Mặc dù có tranh chấp lãnh thổ lâu đời trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, các nguy cơ an ninh lớn nhất đối với biển Nam Trung Hoa không phải là tuyên bố chủ quyền mâu thuẫn nhau trên những hòn đảo nhỏ và đá, mà là yêu sách chủ quyền hoàn toàn của Trung Quốc đối với vùng biển quan trọng về mặt chiến lược này.

Most international experts on maritime disputes, including even some Chinese ones, regard China's claim to be inconsistent with international law, including the United Nations Convention on the Law of the Sea (UNCLOS). China's claim is represented by the so-called "U-shaped line" or "nine-dashed line" map that depicts a line encircling most of the South China Sea.

Hầu hết các chuyên gia quốc tế về các tranh chấp hàng hải, bao gồm cả một số những người Trung Quốc, coi tuyên bố của Trung Quốc không phù hợp với luật pháp quốc tế, bao gồm Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Yêu sách chủ quyền hoàn toàn của Trung Quốc đối với vùng biển quan của Trung Quốc được thể hiện bởi "đường chữ U" hoặc "đường đứt đoạn chin khúc" mô tả một đường bao quanh gần hết vùng biển Nam Trung Hoa.

This map was first published by the Republic of China in 1948 under the heading "Map of the locations of the South China Sea Islands". The name indicates that it was a map of the islands within the U-shaped line, not a claim to the entire maritime space. At that time international law only allowed a claim of territorial sea up to three nautical miles, beyond which was considered international waters.

Bản đồ này lần đầu tiên được công bố bởi nước Cộng hoà Trung Hoa năm 1948 với tiêu đề "Bản đồ vị trí các đảo biển Nam Trung Hoa". Cái tên này cho thấy rằng đó là một bản đồ các đảo trong đường chữ U, không phải là một yêu sách chủ quyền toàn bộ không gian hàng hải. Vào lúc đó luật pháp quốc tế chỉ cho phép một tuyên bố lãnh hải lên đến ba hải lý, ngoài phần đó ra được coi là vùng biển quốc tế.

For decades, this map has remained obscure. Until now Chinese scholars have disagreed on what the map means and its legal basis. China's own territorial sea declaration in 1958 only claimed 12 nautical miles and declared that international waters separated its mainland and the islands which it claimed. In other words, China's own declaration then affirmed that most of the maritime space within the U-shaped line map was international waters.

Trong nhiều thập kỷ, bản đồ này vẫn còn mơ hồ. Cho đến nay các học giả Trung Quốc vẫn bất đồng về ý nghĩa của bản đồ và cơ sở pháp lý của nó. Tuyên bố lãnh hải của Trung Quốc vào năm 1958 chỉ có 12 hải lý và cho rằng vùng biển quốc tế tách đất liền và các đảo mà nó yêu sách chủ quyền. Nói cách khác, tuyên bố của Trung Quốc sau đó khẳng định rằng hầu hết các không gian hàng hải trong bản đồ đường chữ U là vùng biển quốc tế.

With newfound wealth after successful economic reforms launched in the 1980s and more recent rising naval strength, China's territorial ambitions have grown to encompass not just the disputed Paracels and Spratlys but also most of the South China Sea. Consequently, China resurrected the U-shaped line map as if it were a claim to maritime space dating back to 1948, whereas in fact it was a map about the position of islands and by law it could never have been a legitimate claim to maritime space.

Với sự giàu có mới phất sau cải cách kinh tế thành công tiến hành trong những năm 1980 và gia tăng sức mạnh hải quân gần đây, tham vọng lãnh thổ của Trung Quốc đã phát triển để bao gồm không chỉ là quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa đang tranh chấp mà còn hầu hết các vùng biển Nam Trung Hoa. Do đó, Trung Quốc hồi sinh các bản đồ đường chữ U như thể nó là một sách chủ quyền về không gian hàng hải có niên đại đến 1948, trong khi trên thực tế nó là một bản đồ về vị trí của các hòn đảo và theo quy định của pháp luật, nó không bao giờ có thể có được một yêu sách hợp pháp về không gian hàng hải .

In the 1990s, China started to make claims to some oil blocks within the U-shaped line in and near the Nam Con Son Basin between Vietnam and Indonesia. In 2009, China included the U-shaped line map in notes verbales to the United Nations' Commission on the Limit of the Continental Shelf (CLCS) to assert its maritime claim. This was the first time China sent the U-shaped line map to an intergovernmental body.

Vào những năm 1990, Trung Quốc bắt đầu tuyên bố chủ quyền một số lô dầu trong đường chữ U và gần lưu vực Nam Côn Sơn giữa Việt Nam và Indonesia. Năm 2009, Trung Quốc đưa bản đồ đường chữ U vào trong thư ngoại giao gởi tới Ủy ban về Giới hạn Thềm lục địa của Liên hợp quốc (CLCS) để khẳng định chủ quyền hàng hải. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc đã gửi bản đồ đường chữ U đến một cơ quan liên chính phủ.

Vietnam, Indonesia and the Philippines responded with their own notes verbales to the CLCS to reject China's claim and the U-shaped line map. Vietnam's notes maintained that China's claim as represented by the U-shaped line "has no legal, historical or factual basis, therefore is null and void." Indonesia's note said that the U-shaped line map "clearly lacks international legal basis and is tantamount to upset the UNCLOS 1982." The Philippines' note said that China's claim to most of the South China Sea "would have no basis under international law, specifically UNCLOS".

Việt Nam, In-đô-nê-xi-a và Philippines phản ứng với thư ngoại giao của Trung Quốc gởi lên CLCS, bác bỏ yêu sách chủ quyền của Trung Quốc và bản đồ đường chữ U. Thư ngoại giao của Việt Nam cho rằng tuyên bố của Trung Quốc như thể hiện bởi đường chữ U "không có cơ sở pháp lý, lịch sử, thực tế, do đó là vô hiệu." Indonesia cho biết bản đồ chữ U "rõ ràng thiếu cơ sở pháp lý quốc tế và đồng nghĩa với việc phá vỡ UNCLOS 1982". Việt Nam lưu ý rằng việc Trung Quốc yêu sách chủ quyền hầu hết vùng biển Nam Trung Hoa "sẽ không có cơ sở theo quy định của pháp luật quốc tế, đặc biệt là UNCLOS".

Instead of being deterred, China is becoming more assertive. In March 2011, two Chinese patrol ships threatened to ram a vessel that was carrying out seismic survey at the Reed Bank on behalf of the Philippines. According to the Philippines, the Reed Bank is not part of the exclusive economic zone (EEZ) belonging to the Spratlys.

Thay vì bị ngăn cản, Trung Quốc đang ngày càng trở nên quyết đoán hơn. Trong tháng 3 năm 2011, hai tàu tuần tra Trung Quốc dọa đâm một tàu đang thực hiện khảo sát địa chấn tại Bãi Cỏ Rong thuộc Philippines. Theo Philippines, Bãi Cỏ Rong không phải là một phần của vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) thuộc quần đảo Trường Sa.

In May 2011, a Chinese maritime surveillance ship cut the seismic sensor cable of a Vietnamese survey ship operating in an area closer to Vietnam's continental coast than to the disputed Paracels and Spratlys. In June 2011, Chinese fishing boats deliberately ran across the seismic sensor cable of another Vietnamese survey ship which was also operating in an area closer to Vietnam's continental coast than to the disputed Paracels and Spratlys.

Tháng 5 năm 2011, một tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp cảm biến địa chấn của một tàu khảo sát Việt Nam đang hoạt động tại một khu vực gần bờ lục địa của Việt Nam hơn là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tranh chấp. Tháng 6 năm 2011, tàu thuyền đánh cá Trung Quốc cố tình chạy qua dây cáp cảm biến địa chấn của một tàu khảo sát Việt Nam khác cũng đang hoạt động trong một khu vực gần bờ biển lục địa của Việt Nam hơn so với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tranh chấp.

Regarding these incidents, on June 27, the US Senate unanimously passed a resolution in which it "deplores the use of force by naval and maritime security vessels from China in the South China Sea." The resolution also noted that one of the incidents "occurred within 200 nautical miles of Vietnam, an area recognized as its Exclusive Economic Zone".

Về các sự cố này, ngày 27 tháng 6, Thượng viện Mỹ nhất trí thông qua một nghị quyết "lên án việc sử dụng vũ lực bằng tàu hải quân và an ninh hàng hải từ Trung Quốc ở Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông)." Nghị quyết cũng lưu ý rằng một trong những sự cố "xảy ra trong vòng 200 hải lý của Việt Nam, một khu vực được công nhận là Khu đặc quyền kinh tế ".

In August 2011, the Philippines challenged China to take the dispute to the International Tribunal on the Law of the Sea. China did not accept the challenge, which the Philippines took to underline the fact that China's claim is weak in law.

Tháng 8 năm 2011, Philippines thách thức Trung Quốc khi đưa tranh chấp ra Toà án quốc tế về Luật Biển. Trung Quốc không chấp nhận những thách thức mà Philippines đã đưa ra, nhấn mạnh một thực tế là yêu sách chủ quyền của Trung Quốc là yếu về mặt pháp lý.

In the latest episode in September, China warned India that joint exploration with Vietnam in the latter's Blocks 127 and 128 amounted to a violation of China's sovereignty - despite the fact that these blocks were much closer to Vietnam's continental coasts than to the disputed Paracels and Spratlys.

Trong các diễn biến mới nhất vào tháng Chín, Trung Quốc đã cảnh báo Ấn Độ rằng liên doanh thăm dò với Việt Nam trong lô 127 và 128 là vi phạm chủ quyền của Trung Quốc - dù rằng các lô này gần bờ lục địa Việt Nam hơn nhiều so với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa đang tranh chấp.

China justified its position by saying that, "The UN Convention on the Law of the Sea does not entitle any country to extend its exclusive economic zone or continental shelf to the territory of another country." In effect, China is trying to use the "historical claims and rights" argument to negate the United Nations Convention on the Law of the Sea.

Trung Quốc biện minh lập trường của mình bằng cách nói rằng, "Công ước Liên hợp quốc về Luật biển không cho phép bất kỳ nước nào mở rộng vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa đến lãnh thổ của một quốc gia khác". Trong thực tế, Trung Quốc đang cố gắng sử dụng lập luận "tuyên bố lịch sử và các quyền" để phủ nhận các Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển.

According to international law, no nation can claim Blocks 127 and 128 as its sovereign territory. Legally speaking, as an area submerged under the sea, these blocks are not "susceptible to sovereignty", i.e., they cannot be claimed as the territory of any country. Therefore, Blocks 127 and 128 can only be maritime space governed by international law. According to international law, in 1947 that area was international waters, and today it is part of Vietnam's EEZ.

Theo luật pháp quốc tế, không có quốc gia nào có thể yêu sách chủ quyền đối với lô 127 và 128 là lãnh thổ có chủ quyền của mình. Về mặt pháp lý mà nói, là một vùng đất ngập nước dưới đáy biển, nên các lô này không phải là "bị yêu sách chủ quyền" lãnh thổ bởi bất cứ quốc gia nào. Do đó, các lô 127 và 128 chỉ có thể là không gian hàng hải chi phối bởi luật pháp quốc tế. Theo luật pháp quốc tế, năm 1947 khu vực đó là vùng biển quốc tế, và ngày nay nó là một phần của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Regarding the "historical claims and rights" argument, at the Third Biennial Conference of the Asian Society of International Law in August 2011, the Indonesian Ambassador to Belgium, Luxembourg and the European Union obliquely dismissed it as being "at best ridiculous" as follows, ... the "historic claims of historic waters" is problematic for Asia because Asia is a region rich with ancient kingdoms which were both land and maritime powers. Srivijaya Kingdom which has its capital in Sumatra island in seventh century ruled many parts of Southeast Asia and spanned its control all the way to Madagascar. For Indonesia to claim waters corresponding to its history would be at best ridiculous.

Về lập luận "tuyên bố lịch sử và các quyền", tại Hội nghị hai năm một lần lần thứ ba của Hội châu Á về Luật quốc tế vào tháng 8 năm 2011, Đại sứ Indonesia Bỉ, Luxembourg và Liên minh châu Âu gián tiếp bác bỏ nó như là "cực kỳ vô lý" như sau, ... "tuyên bố lịch sử về vùng nước lịch sử" là có vấn đề đối với châu Á bởi vì châu Á là một khu vực có nhiều vương quốc cổ đại mà có cả chủ quyền đất liền và chủ quyền hàng hải. Vương quốc Srivijaya mà vốn có kinh đông ở đảo Sumatra trong thế kỷ thứ bảy cai trị nhiều nơi của Đông Nam Á và mở rông tầm kiểm soát tới tận Madagascar. Đối với Indonesia yêu sách chủ quyền tương ứng với vùng nước theo lịch sử của nó thì sẽ được hết sức vô lý.

Clearly, if nations were allowed to use the "historical claims and rights" argument to claim vast swathes of the world's oceans and seas at the expense of the United Nations Convention on the Law of the Sea - which stipulates that coastal nations have an EEZ of up to 200 nautical miles - it would make a mockery of the Convention. For example, the "historical claims and rights" argument would allow Britain, which "waved the rules and ruled the waves" far more than China ever did, to claim rights over most of the world's oceans and seas.

Rõ ràng, nếu các quốc gia được phép sử dụng lập luận "tuyên bố lịch sử và quyền" yêu sách chủ quyền các đại dương và vùng biển rộng lớn của của thế giới với cái giá của Công ước LHQ về Luật Biển - mà quy định rằng các quốc gia ven biển có một vùng đặc quyền kinh tế của lên đến 200 hải lý – thì đó sẽ là một sự nhạo báng đối với Công ước. Ví dụ, lập luận "tuyên bố lịch sử và các quyền" sẽ cho phép nước Anh, mà "nổi song cai trị và cai trị các ngọn song” nhiều hơn rất nhiều so với Trung Quốc đã làm, để đòi hỏi chủ quyền đối với hầu hết các biển và đại dương của thế giới.

Without having the courage of conviction to go to an international court, China relies on using its superior hard and soft powers to press its claim against smaller Southeast Asian countries in the area. Against this pressure, Southeast Asian parties to the dispute need to improve their individual and collective strength but they also need support from major powers, such as the US, India, Japan, Russia and European Union.

Nếu không có sự can đảm đưa vụ việc ra một tòa án quốc tế, Trung Quốc dựa trên việc sử dụng quyền lực cứng và mềm ưu thế của mình để ép buộc yêu sách chủ quyền của nó chống lại các nước nhỏ hơn trong khu vực Đông Nam Á. Để chống lại áp lực này, các bên tham gia tranh chấp ở Đông Nam Á cần phải nâng cao sức mạnh tùng nước và tập thể của họ, nhưng họ cũng cần sự hỗ trợ từ các nước lớn, chẳng hạn như Mỹ, Ấn Độ, Nhật Bản, Nga và Liên minh châu Âu.

For their own sake, the major powers must not abandon the South China Sea to be turned into a Chinese lake and Southeast Asian nations to fall into China's orbit. That would be disastrous not only to the Southeast Asian countries but ultimately also to the major powers themselves and for the legal order over the ocean that the international community has tried so hard to establish since the 1980s.

(Source: Asia Times)

Vì lợi ích riêng của họ, các cường quốc hẳn sẽ không chịu để biển Nam Trung Hoa (biển Đông) được biến thành ao nhà của Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á rơi vào quỹ đạo của Trung Quốc. Điều đó sẽ là thảm hoạ không chỉ cho các nước Đông Nam Á, mà rốt cuộc, còn cho cả các cường quốc này và cho trật tự luật pháp trên vùng biển mà cộng đồng quốc tế đã cố gắng rất khó nhọc để thiết lập từ những năm 1980.

(Nguồn: Asia Times)



Huy Duong is a freelance writer. His articles on the South China Sea disputes have appeared on Asia Sentinel, the BBC's website, The Diplomat, Manila Times and VietNam Net. He would like to thank Duat Le, Truong Tran, Dang Vu, Nghia Tran and other friends for valuable comments on this article.

Dương Danh Huy cây viết tự do. Bài viết của ông về tranh chấp Biển Nam Trung Hoa đã xuất hiện trên Asia Sentinel, trang web của BBC, Ngoại giao, Manila Times ViệtNam Net. Ông muốn cảm ơn Duật, Trần Trường, Đặng , Trần Nghĩa những người bạn khác đã góp ý kiến ​​có giá trị cho bài viết này.

http://www.atimes.com/atimes/Southeast_Asia/MJ05Ae03.html

Address at Afternoon Exercises, Commencement 2009 Diễn từ của Hiệu trưởng Trường Đại học Harvard trong Lễ Tốt nghiệp năm 2009

President Drew Faust speaks at Afternoon Exercises of Harvard University’s 358th Commencement.

Address at Afternoon Exercises, Commencement 2009

Diễn từ của Hiệu trưởng Trường Đại học Harvard trong Lễ Tốt nghiệp năm 2009

By Drew Gilpin Faust

Drew Gilpin Faust


4-6-2009

Distinguished guests, graduates and families, alumni and alumnae, colleagues and friends – and Secretary Chu, welcome.

NgàyThưa các vị khách quý, các bạn sinh viên vừa tốt nghiệp, quý phụ huynh, cựu sinh viên, các vị đồng nghiệp và bạn bè, và Bộ trưởng Chu, xin chào mừng quý vị đã đến đây tham dự buổi lễ này.

It is customary on this occasion for the president to talk about the year that has passed, to report on the University’s achievements and directions to gathered alumni/ae and friends. This June, I have quite a year on which to reflect — a year of unanticipated and dramatic change.

Đã trở thành truyền thống buổi nói chuyện của hiệu trưởng nhà trường trong lễ tốt nghiệp hàng năm để nói về một năm đã qua, báo cáo về những thành tựu nhà trường đã đạt được và những hướng đi sắp tới trong việc tập hợp các cựu sinh viên và những người bạn của nhà trường. Tháng 6 năm nay tôi có cả một năm đầy những bất ngờ và những đổi thay nhiều kịch tính để mà phản ánh.

Perhaps I should have realized that something unusual was afoot when the freshmen were greeted their first night at Harvard in September with a blackout in the Yard. Within weeks, financial markets were in turmoil, venerable firms began to fall, and we watched trillions of dollars of wealth disappear around the globe. Nine months later, we inhabit a new world — one of changing structures, assumptions, and values as well as changed resources. Few expect a return anytime soon to the world we had come to take for granted just a year ago.

Đáng lẽ tôi cần nhận thức rõ về những gì khác thường đã diễn ra trong đêm đầu tiên chào mừng các em sinh viên năm thứ nhất đặt chân vào Đại học Harvard tháng 9 năm qua, với sân trường được tắt đèn hoàn toàn. Lúc đó, trong nhiều tuần lễ, các thị trường tài chính rối loạn, các công ty uy tín bắt đầu sụp đổ, và chúng ta đã chứng kiến hàng ngàn tỷ đô la biến mất trên toàn cầu. Chín tháng sau, chúng ta sống trong một thế giới mới- một thế giới với những cơ chế, tiền đề và giá trị, cũng như các nguồn lực, đang thay đổi. Ít ai mong đợi sự quay lại nhanh chóng của thế giới mà chúng ta đã quen xem như tất yếu phải thế chỉ mới cách đây một năm mà thôi.

We graduate a class of seniors from the College today who, according to The New York Times, face the most difficult job market in decades. We award professional degrees to students entering fields that are searching for new moorings as they face demands for changed regulation, compensation, and public purpose. And we see the roles and resources of universities changing as well in this environment of global crisis. It is clear we have never been more needed. We have watched as Harvard became a kind of employment bureau for the new administration in Washington. As the White House seeks solutions for the economic downturn, for climate change, health care delivery, regulatory reform, and K-12 education, it has called so many of our faculty to service that Senator Susan Collins of Maine was prompted to ask at the confirmation hearing of one of our colleagues whether any Law School faculty members were left in Cambridge. And not just our faculty but many of our alumni have been drafted as well, occupying numerous cabinet and subcabinet posts — and of course the Oval Office itself.

Hôm nay chúng ta làm lễ tốt nghiệp cho những sinh viên mà theo tờ The New York Times, là những người phải đương đầu với một thị trường lao động khó khăn nhất trong nhiều thập kỷ. Chúng ta cấp bằng cho sinh viên bước vào những ngành nghề đang phải tìm kiếm những “cánh đồng” mới khi đối mặt với những quy định, điều kiện lương bổng và những mục tiêu công đã thay đổi. Và chúng ta thấy vai trò và nguồn lực của các trường đại học cũng đang thay đổi trong môi trường khủng hoảng toàn cầu. Rõ ràng là chưa bao giờ chúng ta được xã hội cần đến như hiện nay. Chúng ta đã thấy Harvard trở thành gần như một cơ quan tuyển dụng cho chính phủ mới ở Washington. Khi Nhà Trắng tìm kiếm giải pháp cứu vãn nền kinh tế suy sụp, hay giải pháp cho tình trạng thay đổi khí hậu, thực hiện chăm sóc sức khỏe cộng đồng, cải cách các quy định hay giáo dục phổ thông, họ đều kêu gọi đến sự phục vụ của đội ngũ cán bộ giảng viên của chúng ta, nhiều đến nỗi Thượng nghị sĩ Susan Collins ở Maine trong một buổi thu thập ý kiến về việc đề bạt nhân sự cấp cao, đã phải hỏi liệu có còn sót lại một giảng viên nào cho trường luật ở Cambridge hay không. Cũng không chỉ các giảng viên, mà rất nhiều cựu sinh viên của chúng ta đã được rút về làm việc ở những vị trí trong nội các và tất nhiên cả Phòng Bầu dục của Nhà Trắng.

Knowledge — and people with knowledge — are critical to addressing the challenges that face us. This is what we do as a university; this is who we are. We produce knowledge, and we disseminate it — as we teach our students, as we share the fruits of our research. The new president has declared that the United States must support “colleges and universities to meet the demands of a new age,” and must, he has said, “restore science to its rightful place,” and must lead the world in research and discovery. His Secretary of Energy, our speaker Steven Chu, has reinforced this message, predicating our prosperity as a nation in the years to come upon, he has said, our “ability to nurture our intellectual capital.”

Tri thức- và những con người có tri thức- là nhân tố cốt yếu để vượt qua những thử thách mà chúng ta đang phải đương đầu. Đó chính là điều mà chúng ta đang làm với tư cách là một trường đại học. Đó chính là điều cho thấy chúng ta là ai. Chúng ta tạo ra tri thức, và chúng ta gieo rắc nó khi giảng dạy sinh viên và chia sẻ kết quả nghiên cứu của mình. Tổng thống mới của chúng ta đã tuyên bố rằng Hoa Kỳ cần phải “hỗ trợ các trường đại học nhằm đáp ứng đòi hỏi của thời đại mới”, và phải “trả khoa học về đúng chỗ chính đáng cuả nó”, nghĩa là dẫn đầu thế giới trong việc nghiên cứu và khám phá. Bộ trưởng Bộ Năng lượng, diễn giả Steven Chu hôm nay, đã nhấn mạnh thêm thông điệp này, khẳng định rằng “sự thịnh vượng của quốc gia chúng ta trong những năm sắp đến tùy thuộc vào khả năng của chúng ta trong việc nuôi dưỡng nguồn vốn trí thức”.

But even as we reaffirm the importance of universities and their work, we have begun to see that we need to do this work differently. At Harvard, as at our peer institutions, we confront changed circumstances that require changed strategies. As a university community we have spent a great deal of time this year focused on these difficult new realities — beginning to decide what we can and must live without. For all this work, we are still at the outset of a process that will define Harvard’s future and, as our peers undertake similar exercises, the future of higher education. But as we come to the end of this year of change and adjustment, we must focus not on what we have lost, but on what we have. It is time to think of ourselves not so much as objects of a global economic crisis beyond our control, but as heirs of a nearly 400-year-old institution that defines academic excellence for much of the world. In the halcyon days of my installation a year and a half ago, I spoke about that accountability — what we at universities owe one another as teachers, students, and scholars and what we as universities owe the world. These responsibilities, this accountability, have now been magnified by the times that confront us. We cannot simply serve as stewards or curators of Harvard’s storied traditions and proud distinction. We must define and shape the purposes of universities for a changed future.

Nhưng ngay cả khi chúng ta tái xác nhận một lần nữa tầm quan trọng của các trường đại học và những việc họ làm, chúng ta đã bắt đầu thấy rằng cần phải làm công việc ấy một cách khác đi so với trước. Ở Trường Đại học Harvard, cũng như những trường bạn, chúng ta đang phải đương đầu với những bối cảnh đã thay đổi và đòi hỏi phải có những chiến lược được thay đổi cho phù hợp. Với tư cách một cộng đồng đại học chúng ta đã dành rất nhiều thời gian trong những năm qua để tập trung vào những thực tiễn mới đầy khó khăn ấy— bắt đầu quyết định xem cái gì chúng ta có thể và buộc phải sống mà không có nó. Về tất cả những việc ấy, chúng ta vẫn còn đang ở những bước đi ban đầu trong việc xác định tương lai của Harvard và bởi vì các trường khác cũng đang làm như thế, chúng ta đang xác định tương lai của giáo dục đại học. Nhưng đến cuối năm học với bao nhiêu thay đổi và điều chỉnh này, chúng ta phải tập trung không phải vào những gì chúng ta đã mất, mà là những gì chúng ta đang có. Đây là lúc nghĩ về chính bản thân chúng ta không hẳn chỉ như đối tượng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đang vượt quá tầm kiểm soát, mà là người kế thừa một ngôi trường bốn trăm năm tuổi, một ngôi trường đã định nghĩa thế nào là sự ưu tú trong khoa học cho cả thế giới. Trong lễ nhậm chức hiệu trưởng cách đây một năm rưỡi, tôi đã nói về trách nhiệm ấy- những gì chúng ta còn nợ các giáo sư, các nhà khoa học và sinh viên, những gì chúng ta với tư cách một trường đại học còn nợ thế giới này. Trách nhiệm này giờ đây càng thêm nặng nề bởi thời đại mà chúng ta đang phải đối mặt. Chúng ta không thể đơn giản chỉ phục vụ như những người quản lý hay trông nom truyền thống và những đặc điểm đáng tự hào của Harvard. Chúng ta phải xây dựng và định hình những mục đích của trường đại học cho một tương lai đã đổi thay.

The distinguished medieval historian Caroline Bynum once observed that “change is what forces us to ask who we are.” What is ephemeral? What is essential? What is just habit? Our accountability — to Harvard, to one another, and to higher education — means that we must ask these questions and we must seize the moment of change and opportunity before us. Change can happen to us — or through us. We must make sure we become its architects, not its victims. We must ask ourselves what it is we want to be on the other side of recession and crisis — when the world has reached what we might call a new normal. How should we envision ourselves and our purposes?

Sử gia lỗi lạc thời Trung cổ Caroline Bynum có lần nhận xét rằng “thay đổi là cái buộc chúng ta phải tự hỏi mình là ai”. Đâu là những thứ phù du sớm nở tối tàn, đâu là những gì bản chất cốt lõi? Cái gì chỉ là tập quán, thói quen? Trách nhiệm của chúng ta đối với Harvard, đối với nhau, đối với giáo dục đại học, nghĩa là chúng ta phải đặt ra những câu hỏi ấy và phải biết nắm lấy thời khắc đổi thay và những cơ hội trước mặt. Đổi thay có thể xảy ra với chúng ta, hoặc thông qua chúng ta. Chúng ta cần phải chắc chắn rằng mình là người thiết kế chứ không phải là nạn nhân của sự đổi thay. Chúng ta phải tự hỏi chính mình, rằng ta muốn trở thành cái gì trong cuộc suy thoái và khủng hoảng này, khi thế giới đang tiếp cận với cái có thể tạm gọi là một tiêu chuẩn mới. Chúng ta sẽ hình dung bản thân mình và những mục đích của mình như thế nào?

These are questions that demand planning and consultation across the University and these processes are under way. They are questions that require decisions and trade-offs from every part of the institution. Each specific choice will have its own impact and significance. But I want to draw our attention today to the meaning of the accumulation of these decisions — a sum far more consequential than any of its parts. These choices, taken as a whole, will constitute our statement of what we at Harvard believe the research university of the 21st century should and must be.

Những câu hỏi này đòi hỏi phải lên kế hoạch và tư vấn nhiều thành viên trong trường, và đó là quá trình còn đang thực hiện. Đây là những câu hỏi đòi hỏi phải có những quyết định và cân bằng các yếu tố khác nhau để đạt được sự kết hợp tốt nhất từ mọi bộ phận của nhà trường. Mỗi sự lựa chọn cụ thể sẽ có những tác động và ý nghĩa của riêng nó. Nhưng tôi muốn hướng sự chú ý của chúng ta hôm nay tới ý nghĩa của việc tích lũy để đi đến những quyết định ấy- một tổng thể vượt rất xa kết quả logic của từng bộ phận. Những sự lựa chọn này, như một tổng thể, sẽ tạo thành tuyên ngôn của chúng ta về niềm tin của Harvard rằng một trường đại học nghiên cứu của thế kỷ 21 nên là và cần phải là như thế nào.

I want to focus for a few minutes on three essential characteristics of universities. Only three. These brief reflections cannot possibly touch on all that we must do and be in the future. But I have chosen these three because they represent especially important and long-lived understandings of our identity — of responsibilities and opportunities that must continue to guide us. But I also want to note the very real challenges we face — as universities and as a nation — in sustaining these commitments in a world that the past year has redefined.

Tôi muốn tập trung vài phút để nói về ba đặc điểm cốt lõi của trường đại học. Chỉ ba mà thôi. Sự phản ánh vắn tắt này không thể nói hết được những gì chúng ta phải làm và phải là trong tương lai. Nhưng tôi đã chọn ba đặc điểm ấy vì nó tiêu biểu cho những nhận thức đặc biệt quan trọng và đã tồn tại từ rất lâu về bản sắc của chúng ta – về những trách nhiệm và những cơ hội sẽ phải tiếp tục hướng dẫn chúng ta. Nhưng tôi cũng muốn lưu ý về những thử thách rất thực mà chúng ta phải đương đầu- với tư cách một trường đại học, cũng như một quốc gia- trong việc duy trì những cam kết này với một thế giới mà năm qua đã định nghĩa lại một cách khác đi nhiều so với trước đó.

First: American universities have long been regarded as engines of opportunity and excellence. Education has been central to the American dream since the time of the nation’s founding. Yet as we all know, rising college costs have increasingly strained the resources of average American families. Keeping higher education affordable is crucial to the nation and crucial to Harvard. Opportunity is about fairness; it is also about excellence. We must be a magnet for talent.

Trước hết: Các trường đại học Hoa Kỳ đã từ lâu được xem là cỗ máy tạo ra cơ hội và sự ưu tú. Giáo dục là tâm điểm của giấc mơ Mỹ từ thời lập quốc. Tuy vậy tất cả chúng ta đều biết rằng học phí đại học tăng cao đã gây khó khăn cho nhiều gia đình trung bình ở Mỹ. Giữ cho giáo dục đại học ở mức người dân có thể chi trả được là điều cốt yếu đối với quốc gia và cốt yếu đối với Harvard. Nói đến cơ hội là nói đến sự công bằng, và đồng thời là sự ưu tú. Chúng ta cần phải là một thỏi nam châm để thu hút tài năng.

We have acted decisively on these convictions. Over the past five years, we have created a transformative undergraduate financial aid program meant to ensure that every student of ability can aspire to attend Harvard College regardless of financial circumstances. And over the past decade, we have tripled levels of financial aid offered by our graduate and professional Schools as well. Our support for students of talent is an essential part of our identity, because we believe that the best ideas do not come from a particular social class or ethnicity or gender or place of origin. Providing broad access is a fundamental dimension of our responsibility and our legitimacy — in our own eyes, given our strongly meritocratic values, and in the eyes of a broader society that provides us with the support of tax exemptions and research dollars. Even as rising need among students and diminishing resources from our endowment have made these commitments increasingly costly, we must affirm these principles of access and opportunity as defining aspects of who we are.

Chúng ta đã hành động một cách kiên định với niềm tin chắc chắn này. Trong năm năm qua, chúng ta đã tạo ra một chương trình hỗ trợ tài chính có tác dụng biến đổi quan trọng, nghĩa là bảo đảm rằng mọi sinh viên có năng lực và tham vọng đều có thể theo học ở Harvard bất kể hoàn cảnh tài chính của họ. Và trong thập kỷ qua, chúng ta đã nâng cao gấp ba lần khoản hỗ trợ tài chính cho sinh viên và cho các trường chuyên ngành của chúng ta. Sự hỗ trợ đối với những sinh viên tài năng là một phần cốt lõi trong bản sắc của chúng ta, vì chúng ta tin rằng những ý tưởng hay nhất không xuất phát từ một giai cấp xã hội hay một dân tộc, giới tính, quê hương cụ thể nào. Đem lại cơ hội rộng rãi trong tiếp cận đại học là phương hướng cơ bản trong trách nhiệm và tính chính đáng trong hoạt động của chúng ta- chính trong mắt chúng ta, với những giá trị dựa trên chế độ tôn trọng nhân tài một cách mạnh mẽ; cũng như trong mắt xã hội rộng lớn đã dành cho chúng ta những ưu tiên như miễn thuế hay tài trợ nghiên cứu. Thậm chí khi nhu cầu nảy sinh trong sinh viên và nguồn quỹ hiến tặng giảm sút khiến những cam kết trên đây thành ra ngày càng quá tốn kém, chúng ta vẫn phải tái khẳng định những nguyên tắc về cơ hội tiếp cận như một nhân tố xác định chúng ta là ai.

Just as we are committed to bringing the brightest minds to fill our classrooms, so we must continue to invest in exceptional faculty to lead them and to pursue the work of discovery that defines Harvard as a preeminent research university. Even in the face of constrained resources we must sustain and build this faculty for the future. Talented students and talented faculty require one another. Let us make sure that we succeed in continuing to attract and nurture both.

Vì chúng ta cam kết sẽ đem những người thông minh nhất vào trường Đại học Harvard, chúng ta sẽ phải tiếp tục đầu tư những giảng viên lỗi lạc nhất để hướng dẫn những con người thông minh ấy theo đuổi việc khám phá và nghiên cứu khoa học, những thứ đã định nghĩa nên Harvard như một trường đại học nghiên cứu ưu việt. Thậm chí ngay cả khi phải đối mặt với tình trạng căng thẳng về nguồn lực, chúng ta cũng phải duy trì và xây dựng đội ngũ giảng viên này cho tương lai. Những sinh viên tài năng đòi hỏi phải có những giảng viên tài năng và ngược lại. Chúng ta hãy bảo đảm rằng mình sẽ tiếp tục thu hút và phát triển thành công cả hai đối tượng ấy.

The second aspect of university identity I want to address is the role of universities as the primary locus for both basic and applied research in the United States. In the years after World War II, federal policy established structures of scientific and social scientific inquiry based on a partnership between government and research universities. Research and development drew limited investment within private industry, and in recent years even these modest levels have declined in a trend best symbolized by the contraction of the storied Bell Labs, which in an earlier era enabled basic research like the Nobel prize-winning discoveries of our honorand Steven Chu.

Nhân tố thứ hai của bản chất trường đại học mà tôi muốn trình bày ở đây là vai trò của trường đại học như một địa điểm cơ bản của nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng ở Hoa Kỳ. Trong những năm sau thế chiến thứ hai, chính sách liên bang đã xây dựng nên một cơ cấu đòi hỏi việc nghiên cứu khoa học và khoa học xã hội được thực hiện dựa trên nhà nước và các trường đại học nghiên cứu. Nghiên cứu và phát triển thu hút không nhiều đầu tư của khu vực tư nhân và trong những năm gần đây thậm chí mức độ đầu tư khiêm tốn ấy còn tiếp tục giảm sút. Xu hướng này được biểu tượng hóa bằng hình ảnh co lại của Phòng Thí nghiệm Bell, nơi mà trong những thập kỷ trước đã từng thúc đẩy những nghiên cứu cơ bản chẳng hạn những khám phá được giải Nobel của Bộ trưởng Steven Chu, người đã nhận bằng danh dự của Harvard.

But even as private industry’s commitment to research declined, so too did government support for science. Over the last three decades, federal funding dedicated to research and development has actually decreased, as a proportion of our GDP, by more than 15 percent. The federal stimulus offers a reprieve from this trend — with an infusion of 21 billion dollars to be spent over the next two years, and the administration has set a goal of devoting more than 3 percent of GDP to research and development even as the stimulus comes to an end. But steep federal deficits will combine with diminished university resources to produce real challenges in meeting this very ambitious intention. Even before the economic downturn, the model for supporting science needed overhaul. As a report from the National Academies warned in 2007, we as a nation were already facing a “gathering storm” in which too few students were choosing science; too few were finding the support necessary to launch and sustain their careers; too many were choosing safe and predictable research in order to secure funding; too few were able to follow their curiosity in pursuit of truly transformative ideas. The financial crisis has only laid bare problems already evident about the future of scientific research in the United States and about the support for science at our research universities.

Nhưng ngay khi sự gắn bó của khu vực tư nhân đối với việc nghiên cứu bị giảm sút, sự hỗ trợ của chính phủ đối với nghiên cứu cũng giảm sút theo. Trong vòng ba thập kỷ vừa qua, ngân sách liên bang dành cho nghiên cứu và phát triển đã giảm sút hơn 15% theo tỷ lệ GDP của Hoa Kỳ. Gói kích cầu của liên bang đã đem lại sự cứu giúp tạm thời làm trì hoãn xu hướng này- với 21 tỉ đô la cho hai năm sắp tới, chính phủ đã đặt mục tiêu dành hơn 3% GDP cho nghiên cứu và phát triển ngay cả khi kế hoạch kích cầu kết thúc. Nhưng thâm hụt tài chính liên bang quá cao sẽ kết hợp với việc thu hẹp nguồn lực của nhà trường để tạo ra những thách thức gay gắt trong việc đáp ứng những dự định rất tham vọng ấy. Thậm chí ngay cả trước khi kinh tế suy sụp, mô hình hỗ trợ khoa học cũng đã cần phải xem xét lại toàn bộ. Một báo cáo của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia năm 2007 đã cảnh báo, đất nước chúng ta đã và đang đối mặt với một cơn bão dồn dập, quá ít sinh viên chọn theo học các ngành khoa học, quá ít người tìm được những hỗ trợ cần thiết để khởi động và duy trì sự nghiệp nghiên cứu của họ; quá nhiều người chọn những nghiên cứu an toàn và có thể dự đoán trước kết quả nhằm bảo đảm có được nguồn tài trợ; quá ít người có khả năng theo đuổi sự tò mò khoa học để đạt đến những ý tưởng cách mạng thực sự. Cuộc khủng hoảng tài chính chỉ làm lộ rõ những vấn đề vốn đã tồn tại về tương lai của nghiên cứu khoa học ở Hoa Kỳ, và về việc hỗ trợ cho khoa học tại các trường đại học nghiên cứu của chúng ta.

The short-term lift of stimulus funds must not divert us from seeking long-term solutions. Federal funding levels are a critical part of the answer but they are only a part. For example, as we here at Harvard contemplate how to support science in these changed economic circumstances, we find ourselves thinking about new kinds of partnerships with foundations and industry, as well as with neighboring educational institutions. Already, we see collaborations across Harvard Schools, with affiliated hospitals, with the Broad Institute, with MIT, and with other universities as essential to our current and evolving work in stem cells, neuroscience, genetics, and bioengineering. And as we consider how to make our Allston dreams affordable, partnerships beyond Harvard offer great promise. If we — as Harvard and as universities more generally — are going to sustain our pre-eminence in scientific discovery we must devise new ways both to conduct and to support research.

Quỹ kích cầu ngắn hạn không được làm chệch hướng chúng ta trong việc tìm kiếm những giải pháp lâu dài. Mức tài trợ của liên bang là một phần trọng yếu của câu trả lời, nhưng đó cũng chỉ là một phần. Chẳng hạn khi nghĩ về việc làm cách nào hỗ trợ cho khoa học trong bối cảnh kinh tế đã thay đổi, chúng ta sẽ thấy mình phải nghĩ tới những quan hệ hợp tác kiểu mới với các quỹ nghiên cứu và các doanh nghiệp, cũng như với các trường khác. Chúng ta đã thấy những quan hệ hợp tác giữa các khoa và trường trong phạm vi Harvard, với các bệnh viện trực thuộc, với Viện Broad, với MIT, và những trường đại học khác như những công việc cốt yếu mà chúng ta đang thực hiện trong việc nghiên cứu tế bào gốc, khoa học nguyên tử, công nghệ gen, và kỹ nghệ sinh học. Và khi chúng ta cân nhắc xem làm thế nào thực hiện được giấc mơ Allston, những quan hệ hợp tác với bên ngoài Harvard tỏ ra rất hứa hẹn. Nếu chúng ta, với tư cách Harvard và với tư cách một trường đại học nói chung, muốn duy trì được sự xuất chúng trong nghiên cứu khoa học thì cần phải tìm ra những cách mới vừa để thực hiện vừa để hỗ trợ cho nghiên cứu.

Third: universities serve as society’s critics and conscience. We are meant to be producers not just of knowledge but of doubt — of understanding rooted in skepticism and constant questioning, not in the unchallenged sway of accepted wisdom. More than perhaps any other institution in our society, universities are about the long view and about the critical perspectives that derive from not being owned exclusively by the present.

Ba là: các trường đại học phục vụ như những nhà phê bình và là lương tâm của xã hội. Chúng ta tạo ra không chỉ tri thức mà còn tạo ra những câu hỏi, tạo ra những hiểu biết bắt nguồn từ chủ nghĩa hoài nghi, từ sự không ngừng đặt câu hỏi chứ không phải từ sự thống trị của những tri thức thông thái được chấp nhận không cần thử thách. Hơn bất cứ một tổ chức nào khác trong xã hội, cốt lõi của các trường đại học là tầm nhìn dài hạn và những quan điểm phản biện, và những điều này có được chính là vì đại học không phải là sở hữu của riêng hiện tại.

For nearly four centuries now, Harvard has looked beyond the immediately useful, relevant, and comfortable to cast current assumptions into the crucible of other places and other times. Universities are so often judged by their measurable utility — by their contributions to economic growth and competitiveness. We can make a powerful case with such arguments. Harvard is the second largest private employer in the Boston metropolitan area, and it directly and indirectly accounted for more than 5.3 billion dollars in economic activity for Massachusetts last year. But such contributions are only a part of what universities do and mean. We need universities for much less immediate and instrumental ends.

Gần bốn thế kỷ qua, Harvard đã nhìn xa hơn những sự hữu dụng và thích đáng tức thời, thoải mái đặt những giả định hiện tại vào sự thử thách gắt gao của những nơi chốn khác và thời đại khác. Các trường đại học thường xuyên được đánh giá bằng tiêu chuẩn có ích – bằng những đóng góp của họ cho sự cạnh tranh và tăng trưởng kinh tế của quốc gia. Chúng ta có thể đưa ra nhiều ví dụ minh họa mạnh mẽ cho luận điểm này. Harvard là nhà tuyển dụng tư nhân lớn thứ nhì trong vùng trung tâm Boston và trực tiếp hay gián tiếp có các hoạt động kinh tế với giá trị trên 5,3 tỉ đô la Mỹ cho Massachusette trong năm qua. Nhưng những đóng góp như thế chỉ là một phần của những gì các trường đại học đã làm và đã tạo nên ý nghĩa trường đại học. Chúng ta cần các trường đại học không chỉ cho những mục tiêu có tính công cụ và tức thời như thế.

I worry that we as universities have not done all we could and should to ask the deep and unsettling questions necessary to the integrity of any society. As the world indulged in a bubble of false prosperity and materialism, should we — in our research, teaching and writing — have done more to expose the patterns of risk and denial inherent in widespread economic and financial choices? Should our values have posed a firmer counterweight and challenge to excess and irresponsibility, to short-term thinking with long-term consequences?

Tôi lo rằng các trường đại học chúng ta chưa làm tốt những gì có thể và đáng lẽ phải làm trong việc đặt ra những câu hỏi sâu xa và đáng lo ngại về tính chính trực của bất cứ xã hội nào. Khi thế giới tự cho phép mình hưởng thụ trong cái bong bóng phồn vinh giả tạo và chủ nghĩa tôn sùng vật chất, nên chăng chúng ta cần phải làm nhiều hơn nữa –qua nghiên cứu, giảng dạy và viết lách- phơi bày những dấu hiệu rủi ro và tâm lý muốn chối bỏ sự thật phũ phàng đang hiện diện trong những lựa chọn kinh tế và tài chính hàng ngày? —Nên chăng hệ thống giá trị của chúng ta cần phải đưa ra một đối trọng và thách thức vững chắc hơn đối với thói vô trách nhiệm và sự quá đáng, đối với lối suy nghĩ chạy theo lợi ích trước mắt và để lại hậu quả lâu dài?

The privilege of academic freedom carries the obligation to speak the truth even when it is difficult or unpopular. So in the end, it comes back to veritas — the commitment to use knowledge and research to penetrate delusion, cant, prejudice, self-interest. That truth may come in the form of scientific insights freed from ideology and politics. It may come in the interpretive work of humanists who show us how to read and think critically and offer us the perspective of other places, other tongues, and other times. It may come through the uniquely revisionary force of the arts — which enable us to understand ourselves and the world through changed eyes and ears. It may come through placing questions of ethics and responsibility at the core of our professional School programs. In fact, in recent weeks a group of students at the Business School have created an MBA oath pledging graduates to “serve the greater good.” Asking how business schools and their graduates might have done more to avert the financial crisis, these students seek to encourage conscience and critical consciousness in both business education and business as a profession.

Đặc quyền về tự do học thuật gắn liền với nghĩa vụ nói lên sự thật ngay cả khi điều đó hết sức khó khăn hay không được nhiều người ưa chuộng. Vậy là rốt cục nó quay lại biểu tượng Sự Thật trên tấm khiên của Harvard- sự cam kết dùng kết quả nghiên cứu và tri thức để xóa tan ảo tưởng, sự thiên lệch, thành kiến và tính tư lợi. Sự thật này có thể đến dưới hình thức những hiểu biết sâu sắc của khoa học không bị chi phối bởi ý thức hệ và chính trị. Nó cũng có thể đến trong công trình của các nhà nghiên cứu khoa học nhân văn, những người đã giúp chúng ta biết cách đọc và suy nghĩ một cách độc lập, cũng như đã đem lại cho chúng ta những quan điểm khác biệt của những tiếng nói khác, từ những nơi chốn khác, thời đại khác. Nó có thể đến thông qua sức mạnh tái hiện độc nhất của nghệ thuật- những thứ đã giúp chúng ta có khả năng hiểu được chính mình và hiểu được thế giới chung quanh nhờ biết thay đổi con mắt và lỗ tai. Nó có thể đến qua những câu hỏi về đạo đức và trách nhiệm được đặt ra trong chương trình giáo dục tổng quát cho tất cả các khoa chuyên ngành trong trường chúng ta. Thực tế là trong mấy tuần qua một nhóm sinh viên Trường Kinh doanh đã sáng tạo ra “lời tuyên thệ của doanh nhân” nhằm bảo đảm mọi sinh viên ra trường sẽ “phục vụ tốt hơn nữa cho điều thiện”. Được hỏi làm cách nào các trường quản trị kinh doanh và sinh viên của họ có thể ngăn chặn hay đẩy lùi cuộc khủng hoảng tài chính, câu trả lời của những sinh viên ấy là họ sẽ tìm cách khuyến khích lương tâm và sự tỉnh táo trong việc đào tạo nghề kinh doanh cũng như trong việc kinh doanh như một hoạt động nghề nghiệp.

The enhancement of our role as critics and doubters must come as well through the education of our undergraduates, where we seek, in the words of the new General Education program, “to unsettle presumptions, to defamiliarize the familiar… to disorient young people and to help them to find ways to reorient themselves.” As we adapt to a rapidly changing world, we must build anew on Harvard’s long traditions of liberal arts education and of humanistic inquiry. These traditions can generate both the self-scrutiny and self-understanding that lead through doubt to wisdom.

Việc nâng cao vai trò của chúng ta như những nhà phản biện và hoài nghi chỉ có được nhờ giáo dục sinh viên, nơi chúng ta tìm cách, theo lời của Chương trình Giáo dục Tổng quát mới, là “làm đảo lộn các giả định hay thành kiến, biến những thứ quen thuộc thành cái gì lạ lùng như lần đầu được thấy.. nhằm làm mất phương hướng những người trẻ tuổi và giúp họ tìm cách tự mình định hướng lại cho chính mình”. Khi thích nghi với một thế giới đang thay đổi nhanh chóng, chúng ta phải một lần nữa xây dựng lại truyền thống giáo dục tự do và những yêu cầu nhân văn của Harvard. Những truyền thống ấy có thể tạo ra khả năng tự nghiên cứu và tự nhận thức giúp chúng ta vượt qua sự hoài nghi để đến được sự thông thái khôn ngoan.

Universities as engines of opportunity; universities as the principal sites of America’s scientific research; universities as truth tellers: these are three fundamental aspects of our understanding of ourselves. Yet each faces challenges in the new era that lies ahead of us — challenges of structures, of affordability, and of values. And we are challenged in turn to demonstrate our commitment to these principles, which have so long been at the heart of how we have defined ourselves. We must not take these principles for granted, and we must not lose sight of them as we make the many choices about what to keep and what to forego in the months ahead. But we must devise new ways of sustaining them for changed times. We are accountable to and for these traditions and the values they represent — the belief that the open and unfettered pursuit of truth will build a better world for us all. This is what inspires all that we do and all that we are — for now and in the years to come.

Trường đại học là cỗ máy sản sinh ra những cơ hội, là mảnh đất chủ yếu của hoạt động nghiên cứu khoa học ở Hoa Kỳ; cũng là người nói lên sự thật; đó là ba nhân tố cơ bản trong nhận thức của chúng ta về trường đại học. Tuy từng nhân tố ấy đang phải đối mặt với những thử thách trong kỷ nguyên mới phía trước chúng ta, những thách thức về cơ chế, về khả năng chi trả, về hệ thống giá trị. Và chúng ta bị thách thức trong việc chứng minh những cam kết của mình đối với ba nguyên tắc ấy, những nguyên tắc bao đời nay đã là trọng tâm của những điều chủ yếu đã định nghĩa nên chúng ta như một trường đại học. Chúng ta không được xem những nguyên tắc ấy là đương nhiên, chúng ta không được đánh mất khả năng nhìn vào những nguyên tắc ấy khi chúng ta buộc phải lựa chọn giữ lại cái gì và bỏ qua cái gì trong những tháng năm sắp đến. Nhưng chúng ta phải tạo ra những phương cách mới để duy trì những nguyên tắc ấy trong một thời đại đã có nhiều đổi thay. Chúng ta có trách nhiệm với những truyền thống ấy và những giá trị mà truyền thống ấy đại diện – đó chính là niềm tin rằng sự cởi mở và tự do theo đuổi chân lý sẽ tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn cho tất cả chúng ta. Đó chính là điều thôi thúc tất cả những gì chúng ta làm và cho thấy chúng ta có ý nghĩa gì – trong thời khắc này cũng như trong nhiều năm sắp đến.


Translated by Phạm Thị Ly

http://www.president.harvard.edu/speeches/faust/090604_commencement.php

http://lypham.net/joomla/index.php?option=com_content&task=view&id=162&Itemid=2