MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Sunday, December 4, 2011

The Broken Contract Khế ước tan vỡ



The Broken Contract

Khế ước tan vỡ

Inequality and American Decline

By George Packer

Bất bình đẳng xã hội và sự suy yếu của Mỹ

George Packer

GEORGE PACKER is a staff writer at The New Yorker. This essay is adapted from a Joanna Jackson Goldman Memorial Lecture on American Civilization and Government that he delivered earlier this year at the New York Public Library’s Cullman Center for Scholars & Writers.

GEORGE PACKER là một cây viết thường trực của tờ New Yorker. Bài tiểu luận này dựa trên một bài Thuyết trình nằm trong Chương trình Tưởng niệm Joanna Jackson Goldman về đề tài Văn minh và Chính phủ Mỹ mà ông đã đọc vào đầu năm nay tại Trung tâm Cullman dành cho các Học giả và Nhà văn thuộc Thư viện Công cộng New York.

Iraq was one of those wars where people actually put on pounds. A few years ago, I was eating lunch with another reporter at an American-style greasy spoon in Baghdad’s Green Zone. At a nearby table, a couple of American contractors were finishing off their burgers and fries. They were wearing the contractor’s uniform: khakis, polo shirts, baseball caps, and Department of Defense identity badges in plastic pouches hanging from nylon lanyards around their necks. The man who had served their food might have been the only Iraqi they spoke with all day. The Green Zone was set up to make you feel that Iraq was a hallucination and you were actually in Normal, Illinois. This narcotizing effect seeped into the consciousness of every American who hunkered down and worked and partied behind its blast walls — the soldier and the civilian, the diplomat and the journalist, the important and the obscure. Hardly anyone stayed longer than a year; almost everyone went home with a collection of exaggerated war stories, making an effort to forget that they were leaving behind shoddy, unfinished projects and a country spiraling downward into civil war. As the two contractors got up and ambled out of the restaurant, my friend looked at me and said, “We’re just not that good anymore.”

Iraq là một trong những cuộc chiến làm cho người ta lên cân. Cách đây vài năm, tôi có dịp ăn trưa với một ký giả khác tại một quán bình dân kiểu Mỹ trong Khu vực xanh (Green Zone) của Thành phố Baghdad . Ở một bàn cạnh đó, hai thầu khoán Mỹ đang ăn vội vàng bánh mì kẹp thịt và khoai chiên. Họ mặc đồng phục của giới thầu khoán: quần kaki, áo polo, mũ bóng chày, và mang thẻ căn cước do Bộ Quốc phòng Mỹ cấp có bọc ni lông trên dây đeo cổ. Người đàn ông phục vụ thức ăn cho họ có lẽ là người Iraq duy nhất mà họ tiếp xúc trong ngày. Khu vực xanh được thiết kế để làm cho bạn có một ảo giác về Iraq và thấy mình như đang ở trong thị xã Normal của bang Illinois. Hiệu ứng ma túy này thấm dần vào tiềm thức của mọi người Mỹ đến đây để ngồi ì, làm việc, hay tiệc tùng sau những bức tường dày của khu vực này — người lính cũng như nhân viên dân sự, nhà ngoại giao cũng như nhà báo, người quan trọng cũng như kẻ tầm thường. Ít ai ở đây quá một năm; hầu như mọi người khi trở lại Mỹ đều mang theo một lô chuyện phóng đại về cuộc chiến, cố quên đi rằng họ đã để lại đằng sau những công trình xập xệ, dang dở và một đất nước đang bị cuốn hút vào một cuộc nội chiến. Khi hai người thầu khoán đứng dậy và bước ra khỏi tiệm ăn, bạn tôi nhìn tôi và nói, “Chúng ta không còn tài giỏi như trước đây”.

The Iraq war was a kind of stress test applied to the American body politic. And every major system and organ failed the test: the executive and legislative branches, the military, the intelligence world, the for-profits, the nonprofits, the media. It turned out that we were not in good shape at all — without even realizing it. Americans just hadn’t tried anything this hard in around half a century. It is easy, and completely justified, to blame certain individuals for the Iraq tragedy. But over the years, I’ve become more concerned with failures that went beyond individuals, and beyond Iraq — concerned with the growing arteriosclerosis of American institutions. Iraq was not an exceptional case. It was a vivid symptom of a long-term trend, one that worsens year by year. The same ailments that led to the disastrous occupation were on full display in Washington this past summer, during the debt-ceiling debacle: ideological rigidity bordering on fanaticism, an indifference to facts, an inability to think beyond the short term, the dissolution of national interest into partisan advantage.

Chiến tranh Iraq là một loại thử nghiệm sức chịu đựng của tổ chức nhà nước Mỹ (the American body politic). Và mọi hệ thống và cơ quan chính yếu của nó đã hỏng cuộc trắc nghiệm này: ngành hành pháp lẫn ngành lập pháp, giới quân sự, giới tình báo, các tổ chức vụ lợi và vô vụ lợi, các phương tiện truyền thông. Hóa ra là các định chế của chúng ta chẳng còn lành mạnh nữa – nhưng chúng ta không nhận ra điều đó. Đơn giản là, khoảng nửa thế kỷ nay người Mỹ chưa đụng phải một thử thách nào khó khăn đến thế. Qui trách nhiệm cho một số cá nhân nhất định về thảm kịch Iraq là quá dễ dàng và hoàn toàn có lý. Nhưng qua nhiều năm nay, tôi trở nên quan tâm hơn về những thất bại vượt quá tầm mức cá nhân, và vượt quá phạm vi Iraq – tôi quan tâm về sự xơ cứng ngày càng trầm trọng của các định chế Mỹ. Iraq không phải là một trường hợp ngoại lệ. Đó là triệu chứng sống động của một xu thế lâu dài, càng năm càng trở nên tồi tệ. Chính những căn bệnh vốn dĩ đã dẫn đến cuộc chiếm đóng thảm bại tại Iraq lại được biểu hiện một cách đầy đủ tại thủ đô Washington mùa hè vừa qua trong sự thất bại thảm hại khi Chính phủ không định được một mức nợ trần (the debt-ceiling debacle). Những căn bệnh đó là: cứng ngắc về ý thức hệ đến mức cuồng tín, dững dưng trước sự thật, không thể nghĩ xa hơn những mục tiêu ngắn hạn, biến lợi ích quốc gia thành lợi thế đảng phái.

Was it ever any different? Is it really true that we’re just not that good anymore? As a thought experiment, compare your life today with that of someone like you in 1978. Think of an educated, reasonably comfortable couple perched somewhere within the vast American middle class of that year. And think how much less pleasant their lives are than yours. The man is wearing a brown and gold polyester print shirt with a flared collar and oversize tortoiseshell glasses; she’s got on a high-waisted, V-neck rayon dress and platform clogs. Their morning coffee is Maxwell House filter drip. They drive an AMC Pacer hatchback, with a nonfunctioning air conditioner and a tape deck that keeps eating their eight-tracks. When she wants to make something a little daring for dinner, she puts together a pasta primavera. They type their letters on an IBM Selectric, the new model with the corrective ribbon. There is only antenna television, and the biggest thing on is Laverne and Shirley. Long-distance phone calls cost a dollar a minute on weekends; air travel is prohibitively expensive. The city they live near is no longer a place where they spend much time: trash on the sidewalks, junkies on the corner, vandalized pay phones, half-deserted subway cars covered in graffiti.

Trước đây, tình thế có khác hơn thế không? Có thật là chúng ta không còn tốt lành nữa chăng? Thử làm một thể nghiệm tư duy đi nhé: so sánh cuộc sống của bạn ngày nay với cuộc sống của một người nào đó như bạn ở thời điểm 1978. Chẳng hạn một cặp vợ chồng có học thức, có cuộc sống tương đối thoải mái ở một vị trí nào đó trong tuyệt đại đa số thuộc giai cấp trung lưu năm đó. Và hãy tưởng tượng cuộc sống của họ còn thiếu tiện nghi hơn cuộc sống hiện nay của bạn như thế nào. Anh chồng mặc một chiếc sơ mi polyester cổ xòe có in hình màu đà và vàng ánh và mang đôi kính gọng đồi mồi quá kích cỡ; chị vợ mặc chiếc áo đầm bằng tơ nhân tạo có cổ chữ V và mang giày cao đế. Buổi sáng họ uống cà phê phin hiệu Maxwell House. Họ lái chiếc Pacer, một loại ô tô con hai cửa của hãng AMC, máy lạnh bị hư và bộ Stereo 8 cứ làm xoắn băng nhựa. Khi chị vợ muốn dọn một món gì khá bảnh cho buổi ăn tối, thì đó là pasta primavera, một món mỳ Ý có nhiều rau. Họ viết thư bằng chiếc máy đánh chữ hiệu Selectric của IBM, mô-đen mới có ri-bông bôi xoá để sửa lỗi. Thời đó chỉ có TV dùng ăng-ten, và chương trình hay nhất là sô hài Laverne and Shirley. Gọi điện thoại ra ngoài địa phương phải mất mỗi phút một đôla vào cuối tuần; du lịch bằng máy bay là cực kỳ tốn kém. Thành phố gần nơi họ sống không còn là chỗ để họ tiêu khiển thì giờ: rác rưởi lấn hết vỉa hè, đồ phế thải chất đống ở mỗi góc đường, điện thoại công cộng bị bọn du thủ phá hoại để lấy tiền, các toa tàu điện ngầm vắng khách bị viết lên bừa bãi bằng những câu khả ố.

By contemporary standards, life in 1978 was inconvenient, constrained, and ugly. Things were badly made and didn’t work very well. Highly regulated industries, such as telecommunications and airlines, were costly and offered few choices. The industrial landscape was decaying, but the sleek information revolution had not yet emerged to take its place. Life before the Android, the Apple Store, FedEx, HBO, Twitter feeds, Whole Foods, Lipitor, air bags, the Emerging Markets Index Fund, and the pre-K Gifted and Talented Program prep course is not a world to which many of us would willingly return.

Theo tiêu chuẩn hiện nay, cuộc sống vào thời điểm 1978 là thiếu tiện nghi, chật hẹp, và xấu xí. Các sản phẩm hãy còn thô sơ và không chạy tốt lắm. Những công nghiệp chịu quá nhiều luật lệ, như ngành viễn liên và hàng không, là rất tốn kém và không cho khách hàng nhiều lựa chọn. Lúc bấy giờ, tình hình công nghiệp nói chung là trong giai đoạn suy tàn, nhưng cuộc cách mạng tin học đầy kiểu dáng thì chưa diễn ra để thay thế nó. Đời sống trước khi có Android, Apple Store, FedEx, HBO, Twitter, Whole Foods, Lipitor, túi khí an toàn, Quĩ chỉ số của các thị trường mới nổi, và khóa học chuẩn bị cho các trẻ em xuất sắc trước khi vào trường mầm non không phải là một thế giới mà nhiều người trong chúng ta muốn trở lại.

The surface of life has greatly improved, at least for educated, reasonably comfortable people — say, the top 20 percent, socioeconomically. Yet the deeper structures, the institutions that underpin a healthy democratic society, have fallen into a state of decadence. We have all the information in the universe at our fingertips, while our most basic problems go unsolved year after year: climate change, income inequality, wage stagnation, national debt, immigration, falling educational achievement, deteriorating infrastructure, declining news standards. All around, we see dazzling technological change, but no progress. Last year, a Wall Street company that few people have ever heard of dug an 800-mile trench under farms, rivers, and mountains between Chicago and New York and laid fiber-optic cable connecting the Chicago Mercantile Exchange and the New York Stock Exchange. This feat of infrastructure building, which cost $300 million, shaves three milliseconds off high-speed, high-volume automated trades — a big competitive advantage. But passenger trains between Chicago and New York run barely faster than they did in 1950, and the country no longer seems capable, at least politically, of building faster ones. Just ask people in Florida, Ohio, and Wisconsin, whose governors recently refused federal money for high-speed rail projects.

Từ bấy đến nay, trên bề mặt, đời sống đã được cải thiện rất nhiều, chí ít cho những người có học thức, tương đối thoải mái về vật chất — chẳng hạn 20% dân số chóp bu trên nấc thang kinh tế-xã hội. Song các cấu trúc sâu sắc hơn, các định chế làm nền tảng cho một xã hội dân chủ lành mạnh, đang tiếp tục rơi vào tình trạng suy đồi. Chúng ta có thể tiếp cận mọi thông tin trên thế giới qua đầu ngón tay, trong khi những vấn đề cơ bản nhất của chúng ta kéo dài từ năm này sang năm khác vẫn không được giải quyết: thay đổi khí hậu, bất bình đẳng lợi tức, nợ quốc gia, vấn đề nhập cư, thành tích giáo dục sa sút, cơ sở hạ tầng xuống cấp, các tiêu chuẩn tin tức suy giảm. Nhìn quanh, chúng ta thấy các thay đổi về công nghệ rất hào nhoáng, nhưng không có tiến bộ. Năm ngoái, một công ty có tên trên sàn giao dịch Wall Street mà ít ai nghe tới đã đào một đường rãnh dài 800 dặm đi dưới các cánh đồng, sông lạch, và núi non giữa Chicago và New York để đặt cáp quang (fiber-optic cable) nối liền Sàn giao dịch thương mại Chicago và Sàn giao dịch chứng khoán New York. Công trình xây dựng cơ sở hạ tầng này, với phí tổn 300 triệu USD, chỉ để tiết kiệm 3 mili giây cho các giao dịch ở tốc độ cao và số lượng lớn — một lợi thế cạnh tranh quan trọng. Song các tàu chở hành khách giữa Chicago và New York ngày nay gần như không chạy nhanh hơn thời điểm 1950 bao nhiêu, và nước Mỹ dường như không còn đủ khả năng chế tạo những con tàu chở hành khách nhanh hơn, chí ít vì lý do chính trị. Chỉ hỏi người dân của các bang Florida , Ohio , và Wisconsin , hẳn biết. Các thống đốc của những bang này vừa từ chối nhận tiền của liên bang dành cho các dự án xây dựng các đường xe lửa cao tốc.

We can upgrade our iPhones, but we can’t fix our roads and bridges. We invented broadband, but we can’t extend it to 35 percent of the public. We can get 300 television channels on the iPad, but in the past decade 20 newspapers closed down all their foreign bureaus. We have touch-screen voting machines, but last year just 40 percent of registered voters turned out, and our political system is more polarized, more choked with its own bile, than at any time since the Civil War. There is nothing today like the personal destruction of the McCarthy era or the street fights of the 1960s. But in those periods, institutional forces still existed in politics, business, and the media that could hold the center together. It used to be called the establishment, and it no longer exists. Solving fundamental problems with a can-do practicality — the very thing the world used to associate with America, and that redeemed us from our vulgarity and arrogance — now seems beyond our reach.

Chúng ta có thể nâng cấp iPhones của chúng ta, nhưng chúng ta không thể sửa sang lại đường sá và cầu cống. Chúng ta phát minh ra băng rộng (broadband), nhưng chúng ta không thể nới rộng việc sử dụng nó đến 35% dân chúng. Chúng ta có thể sử dụng 300 kênh TV trên iPad, nhưng trong thập niên qua 20 tờ báo đã phải đóng cửa tất cả các văn phòng ở nước ngoài. Chúng ta có máy bỏ phiếu với nút bấm trên màn hình, nhưng năm ngoái chỉ có 40% số cử tri đã đăng ký chịu đi bầu. Hệ thống chính trị của chúng ta ngày càng bị phân cực, ngày càng bị bế tắc từ trong cơ chế, hơn bất cứ thời điểm nào từ thời Nội chiến đến nay. Ngày nay, không có việc hủy diệt uy tín cá nhân của thời đại McCarthy hay những cuộc đấu tranh trên đường phố của thập niên 1960. Song trong những giai đoạn đó, sức mạnh của các định chế vẫn còn tồn tại trong chính trị, trong doanh nghiệp, và trong giới truyền thông, đủ mạnh để giữ vững trung tâm của toàn hệ thống. Người ta thường gọi trung tâm đó là giới quyền lực (the establishment), và ngày nay nó không còn hiện hữu nữa. Việc giải quyết các vấn đề cơ bản bằng một tinh thần thực tiển dám làm, đầy lạc quan (a can-do practicality) – một đức tính mà trước đây thế giới thường gắn liền với nước Mỹ, một đức tính từng cứu vớt chúng ta ra khỏi thói kiêu căng hợm hĩnh của chính chúng ta — bây giờ dường như đã nằm ngoài tầm vói.

THE UNWRITTEN CONTRACT

Why and how did this happen? Those are hard questions. A roundabout way of answering them is to first ask, when did this start to happen? Any time frame has an element of arbitrariness, and also contains the beginning of a theory. Mine goes back to that shabby, forgettable year of 1978. It is surprising to say that in or around 1978, American life changed — and changed dramatically. It was, like this moment, a time of widespread pessimism — high inflation, high unemployment, high gas prices. And the country reacted to its sense of decline by moving away from the social arrangement that had been in place since the 1930s and 1940s.

KHẾ ƯỚC BẤT THÀNH VĂN

Vì sao và bằng cách nào tình trạng này đã diễn ra? Đó là những câu hỏi hóc búa. Một lối trả lời quanh co là trước hết phải hỏi, nước Mỹ bắt đầu thay đổi khi nào? Bất cứ một khung thời gian nào cũng có một yếu tố tùy tiện trong đó và bắt đầu cho một giả thuyết. Giả thuyết của tôi có nguồn gốc từ cái năm 1978 thảm hại, đáng phải quên đi. Sẽ có nhiều người ngạc nhiên khi tôi nói rằng vào khoảng năm 1978, đời số Mỹ bắt đầu thay đổi – và thay đổi nhanh chóng. Cũng như bây giờ, năm 1978 là một thời điểm mà mọi người cảm thấy bi quan – tỉ số lạm phát cao, tỉ số thất nghiệp cao, và giá xăng cũng cao. Nước Mỹ phản ứng lại cảm thức suy yếu này bằng cách từng buớc tránh xa cách dàn xếp xã hội (the social arrangement) đã tồn tại từ thập niên 1930 và thập niên 1940.

What was that arrangement? It is sometimes called “the mixed economy”; the term I prefer is “middle-class democracy.” It was an unwritten social contract among labor, business, and government — between the elites and the masses. It guaranteed that the benefits of the economic growth following World War II were distributed more widely, and with more shared prosperity, than at any time in human history. In the 1970s, corporate executives earned 40 times as much as their lowest-paid employees. (By 2007, the ratio was over 400 to 1.) Labor law and government policy kept the balance of power between workers and owners on an even keel, leading to a virtuous circle of higher wages and more economic stimulus. The tax code restricted the amount of wealth that could be accumulated in private hands and passed on from one generation to the next, thereby preventing the formation of an inherited plutocracy. The regulatory agencies were strong enough to prevent the kind of speculative bubbles that now occur every five years or so: between the Great Depression and the Reagan era there was not a single systemwide financial crisis, which is why recessions during those decades were far milder than they have since become. Commercial banking was a stable, boring business. (In movies from the 1940s and 1950s, bankers are dull, solid pillars of the community.) Investment banking, cordoned off by the iron wall of the Glass-Steagall Act, was a closed world of private partnerships in which rich men carefully weighed their risks because they were playing with their own money. Partly as a result of this shared prosperity, political participation reached an all-time high during the postwar years (with the exception of those, such as black Americans in the South, who were still denied access to the ballot box).

Cách dàn xếp đó là gì? Đôi khi nó được gọi là “nền kinh tế hỗn hợp”; từ ngữ mà tôi thích dùng là “nền dân chủ giai cấp trung lưu”. Đó là khế ước bất thành văn của giới lao động, giới doanh nghiệp, và chính phủ — giữa giới quyền lực chóp bu và quần chúng. Khế ước này đã đảm bảo rằng những lợi ích của sự tăng trưởng kinh tế sau Thế chiến II được phân phối rộng rãi hơn, và với sự phồn thịnh được chia đều hơn bất cứ thời điểm nào trong lịch sử loài người. Trong thập niên 1970, tổng giám đốc của các tập đoàn kinh tế kiếm được khoảng 40 lần số lương của nhân viên thấp nhất trong công ty. (Vào năm 2007, tỉ lệ này là hơn 400 trên 1). Luật lao động và chính sách của chính phủ đã giữ được cán cân lực lượng giữa công nhân và chủ nhân trên một thế quân bình, dẫn đến một vòng luân lưu tích cực trong đó đồng lương cao hơn của công nhân đã kích thích kinh tế mạnh mẽ hơn. Luật thuế đã hạn chế số lượng của cải có thể được tích lũy trong tay tư nhân và truyền thừa từ đời này sang đời khác, nhờ thế ngăn chặn được sự hình thành chế độ tài phiệt cha truyền con nối (inherited plutocracy). Các cơ quan điều tiết kinh tế (regulatory agencies) là đủ mạnh để ngăn chặn loại bong bóng đầu cơ (speculative bubbles) mà hiện nay thường xảy ra cứ vào khoảng 5 năm một lần: giữa cuộc Đại suy thoái trong Thập niên 1930 và Thời đại Reagan, không hề có một cuộc khủng hoảng tài chính nào diễn ra trên qui mô toàn hệ thống, đó là lý do tại sao hậu quả của các cuộc suy thoái kinh tế trong những thập niên ấy là nhẹ hơn thời gian gần đây rất nhiều. Ngân hàng thương mại là một doanh nhiệp ổn định đến buồn chán. (Trong các phim từ những thập niên 1940 và 1950, các chủ ngân hàng là những cột trụ vững chắc, tẻ nhạt của cộng đồng. Sinh hoạt của ngân hàng đầu tư, được phong toả bởi bức tường sắt của Đạo luật Glass-Steagall, là một thế giới khép kín của những tổ chức hùn vốn tư nhân trong đó những người giàu có phải cân nhắc cẩn thận những rủi ro vì họ đang chơi với đồng tiền của chính họ. Một phần do hậu quả của sự thịnh vượng chung này, việc tham gia chính trị của người dân đã đạt tới đỉnh cao trong những năm hậu chiến hơn bất cứ thời nào trong lịch sử (với ngoại lệ của những thành phần, như người Mỹ da đen ở Miền Nam, là nơi vào thời đó họ vẫn còn bị từ chối sự tiếp cận với thùng phiếu).

At the same time, the country’s elites were playing a role that today is almost unrecognizable. They actually saw themselves as custodians of national institutions and interests. The heads of banks, corporations, universities, law firms, foundations, and media companies were neither more nor less venal, meretricious, and greedy than their counterparts today. But they rose to the top in a culture that put a brake on these traits and certainly did not glorify them. Organizations such as the Council on Foreign Relations, the Committee for Economic Development, and the Ford Foundation did not act on behalf of a single, highly privileged point of view — that of the rich. Rather, they rose above the country’s conflicting interests and tried to unite them into an overarching idea of the national interest. Business leaders who had fought the New Deal as vehemently as the U.S. Chamber of Commerce is now fighting health-care and financial reform later came to accept Social Security and labor unions, did not stand in the way of Medicare, and supported other pieces of Lyndon Johnson’s Great Society. They saw this legislation as contributing to the social peace that ensured a productive economy. In 1964, Johnson created the National Commission on Technology, Automation, and Economic Progress to study the effects of these coming changes on the work force. The commission included two labor leaders, two corporate leaders, the civil rights activist Whitney Young, and the sociologist Daniel Bell. Two years later, they came out with their recommendations: a guaranteed annual income and a massive job-training program. This is how elites once behaved: as if they had actual responsibilities.

Đồng thời, tầng lớp chóp bu của nước Mỹ lúc bấy giờ đã đóng một vai trò mà ngày nay ta không còn thấy. Họ thực sự tự coi mình là người canh giữ các định chế và lợi ích quốc gia. Những người đứng đầu các ngân hàng, các tập đoàn kinh tế, các đại học, các văn phòng luật sư, các sáng hội, và các hãng truyền thông cũng có thể bị mua chuộc, cũng có thể đỉ bợm và tham lam như các đồng nghiệp của họ ngày nay, không hơn không kém. Nhưng họ đã vươn lên địa vị chóp bu trong một nền văn hóa có đủ sức kềm hãm những đặc điểm tiêu cực nói trên và chắc chắn họ không ca ngợi chúng. Những tổ chức như Council on Foreign Relations (Hội đồng nghiên cứu quan hệ đối ngoại), the Committee for Economic Development (Ủy ban phát triển kinh tế), và the Ford Foundation (Sáng hội Ford) không hành động để bênh vực một quan điểm đơn nhất của giới đặc quyền đặc lợi – quan điểm của nhà giàu. Nói cho ngay, các tổ chức này đã vượt lên trên các lợi ích xung khắc nhau trong nước và cố gắng đoàn kết chúng trong một ý niệm bao trùm là lợi ích quốc gia. Chính những nhà lãnh đạo doanh nghiệp từng phản đối Chính sách kinh tế mới (New Deal) — một cách mãnh liệt chẳng khác gì Phòng Thương mại Hoa Kỳ hiện nay đang chống cuộc cải tổ y tế và tài chính — về sau lại chấp nhận Chương trình An sinh Xã hội (Social Security) và các công đoàn, không cản trở Chương trình y tế dành cho người hưu trí (Medicare), và hậu thuẫn các sáng kiến khác trong chương trình cải tổ “Đại xã hội” (Great Society) của Lyndon Johnson. Họ coi các thành tựu lập pháp nói trên như một đóng góp cho sự hài hòa của xã hội để đảm bảo một nền kinh tế có hiệu năng. Năm 1964, Johnson thành lập Ủy ban Quốc gia về Công nghệ, Tự động hóa, và Tiến bộ Kinh tế để nghiên cứu hiệu quả của những cải cách sắp tới trên lực lượng lao động. Ủy ban này gồm có hai lãnh đạo lao động, hai lãnh đạo tập đoàn kinh tế, nhà hoạt động nhân quyền Whitney Young, và nhà xã hội học Daniel Bell. Hai năm sau, họ đưa ra các đề xuất gồm có: một lợi tức hằng năm được bảo đảm và một chương trình huấn nghệ rộng lớn. Đây là cách hành xử của tầng lớp chóp bu ngày trước: như thể họ có trách nhiệm thực sự đối với xã hội.

Of course, the consensus of the postwar years contained plenty of injustice. If you were black or female, it made very little room for you. It could be stifling and conformist, authoritarian and intrusive. Yet those years also offered the means of redressing the very wrongs they contained: for example, strong government, enlightened business, and activist labor were important bulwarks of the civil rights movement. Nostalgia is a useless emotion. Like any era, the postwar years had their costs. But from where we stand in 2011, they look pretty good.

Hẳn nhiên, sự đồng thuận xã hội thời hậu chiến vẫn còn nhiều bất công. Nếu bạn là người da đen hoặc là phụ nữ, sự đồng thuận này vẫn chưa dành nhiều chỗ đứng cho bạn. Nó có thể áp bức, bắt bạn phải phục tùng, nó có thể độc tài, xâm phạm đời tư của bạn. Song giai đọan đó cũng đưa ra những phương cách sửa đổi những sai lầm tồn tại: chẳng hạn, một chính phủ mạnh, một giới doanh nghiệp sáng suốt, và một giới lao động tranh đấu là những thành trì quan trọng của phong trào dân quyền (the civil rights movement). Luyến tiếc dĩ vãng là một tình cảm vô ích. Như bất cứ thời đại nào, những năm hậu chiến cũng có những khuyết tật của nó. Song từ góc nhìn của chúng ta ở thời điểm 2011, đó là những năm khá tốt đẹp.

THE RISE OF ORGANIZED MONEY

Two things happened to this social arrangement. The first was the 1960s. The story is familiar: youth rebellion and revolution, a ferocious backlash now known as the culture wars, and a permanent change in American manners and morals. Far more than political utopia, the legacy of the 1960s was personal liberation. Some conservatives argue that the social revolution of the 1960s and 1970s prepared the way for the economic revolution of the 1980s, that Abbie Hoffman and Ronald Reagan were both about freedom. But Woodstock was not enough to blow apart the middle-class democracy that had benefited tens of millions of Americans. The Nixon and Ford presidencies actually extended it. In his 2001 book, The Paradox of American Democracy, John Judis notes that in the three decades between 1933 and 1966, the federal government created 11 regulatory agencies to protect consumers, workers, and investors. In the five years between 1970 and 1975, it established another 12, including the Environmental Protection Agency, the Occupational Safety and Health Administration, and the Consumer Product Safety Commission. Richard Nixon was a closet liberal, and today he would be to the left of Senator Olympia Snowe, the moderate Republican.

SỰ TRỖI DẬY CỦA GIỚI TÀI PHIỆT

Có hai sự kiện đã xảy đến cho sự sắp xếp xã hội có tính cách mới mẻ này. Trước hết là những biến động của thập niên 1960. Sự tường thuật quen thuộc là: tuổi trẻ nổi loạn và làm cách mạng, một phản ứng dữ dội mà ngày nay ta gọi là các cuộc chiến văn hóa, đã thay đổi vĩnh viễn phong cách và đạo lý Mỹ. Vượt hẳn ra ngoài tính không tưởng chính trị (political utopia), di sản của thập niên 1960 là sự giải phóng cá nhân. Một số nhân vật bảo thủ cho rằng cuộc cách mạng xã hội của thập niên 1960 và thập niên 1970 đã dọn đường cho cuộc cách mạng kinh tế của thập niên 1980, rằng Abbie Hoffman [người đồng sáng lập Đảng Thanh niên Quốc tế, gọi tắt "Yippies"] và Ronald Reagan cả hai đều tranh đấu cho tự do. Nhưng [tinh thần tự do được biểu hiện trong đại nhạc hội] Woodstock không đủ để phá vỡ chế độ dân chủ giai cấp trung lưu (middle-class democracy) đã từng phục vụ lợi ích của hằng chục triệu người Mỹ. Các chính quyền của Tổng thống Nixon và Tổng thống Ford đã thực sự kéo dài chế độ dân chủ giai cấp trung lưu ấy. Trong tác phẩm xuất bản năm 2001, The Paradox of American Democracy (Nghịch lý của Dân chủ Mỹ), John Judis nhận xét rằng trong 3 thập niên, từ 1933 đến 1966, chính phủ liên bang đã tạo ra 11 cơ quan điều hành để bảo vệ quyền lợi của người tiêu thụ, giới công nhân, và người đầu tư. Trong vòng 5 năm, từ 1970 đến 1975, chính phủ liên bang lập thêm 12 cơ quan nữa, gồm Cơ quan Bảo vệ Môi trường (the Environmental Protection Agency), Cơ quan Điều hành Y tế và An toàn Nghề nghiệp (the Occupational Safety and Health Commission). Richard Nixon là một chính trị gia phóng khoáng được che dấu dưới lớp áo bảo thủ (a closet liberal), và ngày nay chắn chắn ông sẽ đứng về cánh tả của Thượng nghị sĩ Olympia Snow, một nhân vật Cộng hòa ôn hòa.

The second thing that happened was the economic slowdown of the 1970s, brought on by “stagflation” and the oil shock. It eroded Americans’ paychecks and what was left of their confidence in the federal government after Vietnam, Watergate, and the disorder of the 1960s. It also alarmed the country’s business leaders, and they turned their alarm into action. They became convinced that capitalism itself was under attack by the likes of Rachel Carson and Ralph Nader, and they organized themselves into lobbying groups and think tanks that quickly became familiar and powerful players in U.S. politics: the Business Roundtable, the Heritage Foundation, and others. Their budgets and influence soon rivaled those of the older, consensus-minded groups, such as the Brookings Institution. By the mid-1970s, chief executives had stopped believing that they had an obligation to act as disinterested stewards of the national economy. They became a special interest; the interest they represented was their own. The neoconservative writer Irving Kristol played a key role in focusing executives’ minds on this narrower and more urgent agenda. He told them, “Corporate philanthropy should not be, and cannot be, disinterested.”

Sự kiện thứ hai đã diễn ra là nạn suy trầm kinh tế của thập niên 1970, mà nguyên nhân là sự đình đốn kinh tế đi đôi với lạm phát (stagflation) và cú sốc dầu lửa [do sự phong toả cuả OPEC]. Sự kiện này bào mòn lợi tức của người Mỹ và niềm tin tưởng còn sót lại đối với chính phủ liên bang sau Chiến tranh Việt Nam, Watergate, và xáo trộn xã hội của thập niên 1960. Nó cũng báo động giới lãnh đạo doanh nghiệp Mỹ, và giới này đã biến sự báo động này thành hành động. Họ bắt đầu tin rằng bản thân chủ nghĩa tư bản đang bị những nhà hoạt động như Rachel Carson [bảo vệ môi trường] và Ralph Nader [bảo vệ quyền lợi người tiêu thụ] đánh phá, và họ tự tổ chức thành những nhóm vận động hành lang (lobbying groups) và những viện nghiên cứu chính sách (think tanks) — những nhóm này nhanh chóng trở thành các tổ chức hoạt động quen thuộc, đầy quyền lực trong chính trị Mỹ: the Business Roundtable, the Heritage Foundation, và một số tổ chức khác. Ngân sách và ảnh hưởng của chúng chẳng bao lâu đã có thể sánh với những nhóm kỳ cựu có ý thức đồng thuận cao hơn, như viện nghiên cứu Brookings Institution. Giữa thập niên 1970, các tổng giám đốc công ty không còn tin rằng họ có bổn phận phải hành động như những người bảo quản vô vị lợi của nền kinh tế quốc gia. Họ đã trở thành một nhóm lợi ích đặc biệt; và lợi ích mà họ đại diện là của chính họ. Irving Kristol, một nhà văn thuộc khuynh hướng tân bảo thủ, đã đóng một vai trò chủ yếu trong việc tập trung sự quan tâm của các giám đốc công ty vào chương trình nghị sự hẹp hòi và khẩn cấp hơn. Ông khuyên họ: “Lòng bác ái của các tập đoàn kinh tế không nhất thiết phải là, và không thể là, vô vị lợi”.



Among the non-disinterested spending that corporations began to engage in, none was more interested than lobbying. Lobbying has existed since the beginning of the republic, but it was a sleepy, bourbon-and-cigars practice until the mid- to late 1970s. In 1971, there were only 145 businesses represented by registered lobbyists in Washington; by 1982, there were 2,445. In 1974, there were just over 600 registered political action committees, which raised $12.5 million that year; in 1982, there were 3,371, which raised $83 million. In 1974, a total of $77 million was spent on the midterm elections; in 1982, it was $343 million. Not all this lobbying and campaign spending was done by corporations, but they did more and did it better than anyone else. And they got results.

Trong các chi tiêu thiếu tinh thần vô vị lợi (non-disinterested) mà các tập đoàn bắt đầu xúc tiến, không có gì vị lợi hơn vận động hành lang (lobbying). Vận động hành lang đã có từ thời nước Mỹ mới thành lập, nhưng mãi cho đến giữa hay cuối thập niên 1970, nó chỉ là thủ tục giao tế tẻ nhạt. Năm 1971, chỉ có 145 doanh nghiệp được đại diện bởi các chuyên viên vận động hành lang có đăng ký tại Washington; vào năm 1982, con số này là 2.445. Năm 1974, chỉ có trên 600 ủy ban vận động chính trị (political action committees, viết tắt PAC), quyên góp được 12,5 triệu USD năm đó; năm 1982, có đến 3.371 ủy ban, quyên góp được 83 triệu USD. [PACs là các nhóm tư nhân được tổ chức để lựa chọn ứng cử viên hay theo đuổi các hoạt động lập pháp, DG.] Năm 1974, tổng số tiền chi tiêu cho cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ Tổng thống là 77 triệu USD ; năm 1982, con số đó lên tới 343 triệu USD. Không phải tất cả mọi vận động hành lang và chi tiêu tranh cử đều do các tập đoàn kinh tế thực hiện, nhưng các tập đoàn này chiếm đa số và làm tốt hơn bất cứ tổ chức nào khác. Và chúng đạt được kết quả mong muốn.

These changes were wrought not only by conservative thinkers and their allies in the business class. Among those responsible were the high-minded liberals, the McGovernites and Watergate reformers, who created the open primary, clean election laws, and “outsider” political campaigns that relied heavily on television advertising. In theory, those reforms opened up the political system to previously disenfranchised voters by getting rid of the smoke-filled room, the party caucus, and the urban boss — exchanging Richard Daley for Jesse Jackson. In practice, what replaced the old politics was not a more egalitarian new politics. Instead, as the parties lost their coherence and authority, they were overtaken by grass-roots politics of a new type, driven by direct mail, beholden to special interest groups, and funded by lobbyists. The electorate was transformed from coalitions of different blocs — labor, small business, the farm vote — to an atomized nation of television watchers. Politicians began to focus their energies on big dollars for big ad buys. As things turned out, this did not set them free to do the people’s work: as Senator Tom Harkin, the Iowa Democrat, once told me, he and his colleagues spend half their free time raising money.

Những thay đổi này được thực hiện không những bởi các nhà tư tưởng bảo thủ và các đồng minh của họ trong giới doanh nghiệp. Trong số những người đã thúc đẩy sự chuyển biến phải kể đến những thành phần phóng khoáng mang lý tưởng cao thượng (high-minded liberals), những người theo khuynh hướng McGovern và những người đòi cải tổ chính trị sau vụ Watergate, tức những người đã đã tạo ra các luật bầu cử trong sạch cho phép cử tri bầu cử vòng đầu để chọn ứng cử viên chính thức (open primary, clean election laws). Họ cũng sáng tạo các hình thức vận động chính trị “bên ngoài” chủ yếu dựa vào quảng cáo trên TV. Trên lý thuyết, những cải tổ này đã mở rộng hệ thống chính trị cho những người trước đây bị tướt đoạt quyền bầu cử, bằng cách loại bỏ việc lựa chọn ứng cử viên do quyết định của một thiểu số (the smoke-filled room), do một nhóm người trong một đảng chính trị (the party caucus) hay do một đầu sỏ chính trị trong một thành phố (the urban boss) – thay thế Richard Daley bằng Jesse Jackson. Nhưng trong thực tế, những gì thay thế sinh hoạt chính trị cũ cũng không mang lại một nền chính trị mới mẻ công bình hơn. Thay vào đó, các chính đảng đã mất tính cố kết (coherence) và cả quyền hành đối với đảng viên. Vì bị chính trị cơ sở kiểu mới qua mặt, các đảng chính trị phải vận động bằng cách trực tiếp gửi thư (direct mail) đến các nhóm cử tri, phải chịu ơn các nhóm lợi ích đặc biệt, và nhận tài trợ từ các nhóm vận động hành lang. Trong khi đó, giới cử tri (the electorate) được chuyển hóa từ các liên minh của các khối khác nhau – như lao động, tiểu thương, và nông gia – thành một quốc gia bị phân tán nhỏ gồm những khán giả truyền hình. Các chính trị gia bắt đầu tập trung năng lực của mình vào việc vận động tiền bạc thật nhiều để mua các thời khoảng quảng cáo thật lớn. Rốt cuộc, nỗ lực vận động tài chính này đã không cho phép họ có đủ thì giờ để phục vụ nhân dân: như Nghị sĩ Tom Harkin, đảng viên Dân chủ bang Iowa, có lần đã nói với tôi, rằng ông và các đồng viện của ông đã mất tiêu nửa thời gian ngoài Quốc Hội để vận động tài chính.

This is a story about the perverse effects of democratization. Getting rid of elites, or watching them surrender their moral authority, did not necessarily empower ordinary people. Once Walter Reuther of the United Auto Workers and Walter Wriston of Citicorp stopped sitting together on Commissions to Make the World a Better Place and started paying lobbyists to fight for their separate interests in Congress, the balance of power tilted heavily toward business. Thirty years later, who has done better by the government — the United Auto Workers or Citicorp?

Trường hợp sau đây nói lên hiệu ứng lệch lạc của tiến trình dân chủ hóa. Loại bỏ giới quyền lực chóp bu, hay chứng kiến họ từ bỏ thẩm quyền đạo lý, không nhất thiết tăng thêm quyền lực cho người dân bình thường. Một khi Walter Reuther của công đoàn Công nhân Xe hơi Thống nhất (UAW) và Walter Wriston của Ngân hàng Citicorp không còn sát cánh bên nhau trong Các nhiệm vụ làm cho thế giới tốt đẹp hơn (Commissions to Make the World a Better Place) mà bắt đầu mướn các chuyên viên vận động hành lang để tranh đấu cho quyền lợi riêng của phe nhóm mình tại Quốc Hội Mỹ, cán cân lực lượng nghiêng hẳn về phía các doanh nghiệp. Ba mươi năm sau, ai đã giành lợi thế trong Chính phủ — công đoàn UAW hay Citcorp?

In 1978, all these trends came to a head. That year, three reform bills were brought up for a vote in Congress. One of the bills was to establish a new office of consumer representation, giving the public a consumer advocate in the federal bureaucracy. A second bill proposed modestly increasing the capital gains tax and getting rid of the three-Martini-lunch deduction. A third sought to make it harder for employers to circumvent labor laws and block union organizing. These bills had bipartisan backing in Congress; they were introduced at the very end of the era when bipartisanship was routine, when necessary and important legislation had support from both parties. The Democrats controlled the White House and both houses of Congress, and the bills were popular with the public. And yet, one by one, each bill went down in defeat. (Eventually, the tax bill passed, but only after it was changed; instead of raising the capital gains tax rate, the final bill cut it nearly in half.)

Năm 1978, tất cả những xu thế này đều đi đến một giai đoạn nghiêm trọng. Năm đó, ba dự luật cải tổ [kinh tế và xã hội] được đưa ra trước Quốc Hội để biểu quyết. Một trong ba dự luật đó là thiết lập một văn phòng mới đại diện cho người tiêu thụ, giúp công chúng có được một tiếng nói bênh vực quyền lợi của giới tiêu thụ ngay trong bộ máy hành chính liên bang. Dự luật thứ hai đề nghị gia tăng một cách khiêm nhượng thuế lợi nhuận tài sản đầu tư (capital gains tax) và bải bỏ việc khấu trừ [ra khỏi lợi tức phải đóng thuế] các chi phí khoản đãi trong doanh nghiệp. Một dự luật thứ ba tìm cách tạo khó khăn để các công ty không thể tránh né luật lao động và cản trở việc tổ chức công đoàn. Những dự luật này đã được sự hậu thuẫn lưỡng đảng [Cộng hòa và Dân chủ] ở trong Quốc Hội; chúng được đưa ra đúng vào giai đoạn cuối cùng của một thời đại mà sự đồng thuận lưỡng đảng là chuyện bình thường, một thời đại mà các dự luật quan trọng và thiết yếu đều được sự hậu thuẫn từ hai đảng. Đấy là lúc Đảng Dân chủ kiểm soát được Nhà trắng và hai viện của Quốc Hội, và các dự luật này rất được dân chúng ủng hộ. Song, từng dự luật một theo nhau đi đến thất bại. (Cuối cùng dự luật thuế vụ được thông qua, nhưng chỉ sau khi nó bị thay đổi; thay vì tăng thuế lợi nhuận tài sản đầu tư [the capital gains tax rate], văn bản cuối cùng của dự luật đã cắt giảm thuế đó một nửa).

How and why this happened are explored in Jacob Hacker and Paul Pierson’s recent book, Winner-Take-All Politics. Their explanation, in two words, is organized money. Business groups launched a lobbying assault the likes of which Washington had never seen, and when it was all over, the next era in American life had begun. At the end of the year, the midterm elections saw the Republicans gain 15 seats in the House and three in the Senate. The numbers were less impressive than the character of the new members who came to Washington. They were not politicians looking to get along with colleagues and solve problems by passing legislation. Rather, they were movement conservatives who were hostile to the very idea of government. Among them was a history professor from Georgia named Newt Gingrich. The Reagan revolution began in 1978.

Sự kiện này đã diễn ra như thế nào và lý do tại sao là đề tài nghiên cứu trong tác phẩm gần đây của Jacob Hacker và Paul Pierson, Winner-Take-All Politics (Chính trị kẻ-thắng-chiếm-hết). Lý giải của họ, gói ghém trong hai từ, là “tài phiệt” (organized money). Các nhóm doanh nghiệp đã tung ra một đợt tấn công xuyên qua nỗ lực vận động hành lang (a lobbying attack), một chiến dịch mà Washington chưa bao giờ chứng kiến trước đó. Và khi đấu trường lắng dịu, người ta mới nhận ra một kỷ nguyên mới đã bắt đầu trong sinh hoạt chính trị Mỹ. Cuối năm 1978, các cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ tổng thống (the mid-term elections) đã cho phép Đảng Cộng hòa giành thêm 15 ghế trong Hạ viện và 3 ghế trong Thượng viện. Bản thân của những con số này không ấn tượng bằng bản chất của những thành viên Quốc Hội mới đến Washington. Họ không phải là loại chính trị gia tìm cách làm việc hài hòa với các đồng viện và giải quyết các vấn đề bằng cách thông qua các dự luật. Nói đúng ra, họ là những nhân vật bảo thủ nằm trong một phong trào vốn xung khắc ngay cả ý niệm chính phủ. Trong số đó có một giáo sư sử học từ bang Georgia tên là Newt Gingrich. Cuộc cách mạng Reagan đã bắt đầu vào năm 1978.

Organized money did not foist these far-reaching changes on an unsuspecting public. In the late 1970s, popular anger at government was running high, and President Jimmy Carter was a perfect target. This was not a case of false consciousness; it was a case of a fed-up public. Two years later, Reagan came to power in a landslide. The public wanted him.

Giới tài phiệt không hề lén lút áp đặt những thay đổi rộng lớn này lên một quần chúng ngây thơ và thiếu cảnh giác. Vào cuối thập niên 1970, làn sóng phẫn nộ của dân chúng đối với Chính phủ đã lên cao, và Tổng thống Jimmy Carter nằm trong tầm nhắm tuyệt vời của họ. Đây không phải là một trường hợp về ý thức sai lầm của người dân, nhưng là một trường hợp về người dân đã chán ngán Chính phủ. Hai năm sau, Reagan lên nắm được chính quyền bằng một số phiếu cực lớn (a landslide). Chính dân chúng đã muốn nhà lãnh đạo này.

But that archetypal 1978 couple with the AMC Pacer was not voting to see its share of the economic pie drastically reduced over the next 30 years. They were not fed up with how little of the national income went to the top one percent or how unfairly progressive the tax code was. They did not want to dismantle government programs such as Social Security and Medicare, which had brought economic security to the middle class. They were not voting to weaken government itself, as long as it defended their interests. But for the next three decades, the dominant political faction pursued these goals as though they were what most Americans wanted. Organized money and the conservative movement seized that moment back in 1978 to begin a massive, generation-long transfer of wealth to the richest Americans. The transfer continued in good economic times and bad, under Democratic presidents and Republican, when Democrats controlled Congress and when Republicans did. For the Democrats, too, went begging to Wall Street and corporate America, because that’s where the money was. They accepted the perfectly legal bribes just as eagerly as Republicans, and when the moment came, some of them voted almost as obediently. In 2007, when Congress was considering closing a loophole in the law that allowed hedge fund managers to pay a tax rate of 15 percent on most of their earnings — considerably less than their secretaries — it was New York’s Democratic senator Charles Schumer who rushed to their defense and made sure it did not happen. As Bob Dole, then a Republican senator, said back in 1982, “Poor people don’t make campaign contributions.”

Nhưng cặp vợ chồng điển hình của năm 1978, với chiếc Pacer-AMC nói trên, không đi bầu để thấy phần bánh kinh tế của mình bị cắt giảm một cách thảm hại trong 30 năm qua. Họ không bất mãn vì lợi tức quốc gia đã rơi vào 1% dân số nằm ở chóp bu là quá ít hay vì luật thuế vụ đã tiến bộ một cách bất công đối với người giàu. Họ không hề muốn dẹp bỏ các chương trình chính phủ như An sinh Xã hội và Bảo hiểm y tế cho người già (Medicare), những chương trình đã mang lại an ninh kinh tế cho giai cấp trung lưu. Họ không đi bầu để làm suy yếu Chính phủ, bao lâu mà Chính phủ còn bảo vệ lợi ích của họ. Nhưng suốt 30 năm tiếp theo, thế lực khống chế chính trường đã theo đuổi những mục tiêu [đi ngược với nguyện vọng của cặp vợ chồng nói trên] như thể những mục tiêu này là những gì mà tuyệt đại đa số dân chúng Mỹ mong muốn. Giới tài phiệt và phong trào bảo thủ đã nắm lấy vận hội vào năm 1978 để khởi động một cuộc chuyển giao tài sản to lớn và kéo dài cả một thế hệ sang tay những người giàu có nhất nước Mỹ. Sự chuyển giao này đã diễn ra liên tục trong thời kỳ kinh tế hưng thịnh cũng như lúc gặp khó khăn, dưới các đời Tổng thống Dân chủ cũng như Cộng hòa, khi Đảng Dân chủ kiểm soát Quốc Hội cũng như khi Đảng Cộng hòa khống chế ngành lập pháp. Vì các nhà chính trị của Đảng Dân chủ cũng lũ lượt đến gõ cửa Wall Street và các tập đoàn kinh tế Mỹ, vì đấy là nơi có nhiều tiền lắm của. Các đảng viên Dân chủ cũng nhận hối lộ hợp pháp một cách nồng nhiệt như các đảng viên Cộng hòa, và khi có cơ hội một số trong bọn họ cũng bỏ phiếu ngoan ngoãn để phục vụ giới tài phiệt chẳng khác chi các đối thủ chính trị của mình. Năm 2007, khi Quốc Hội đang xét đến việc khép lại một kẽ hở trong đạo luật cho phép các nhà quản lý quĩ đối xung (hedge fund managers) chỉ trả 15% trên hầu hết lợi tức của mình – nghĩa là còn kém hơn tỉ suất thuế cuả các thư ký của họ — Nghị sĩ Dân chủ Charles Schumer của bang New York vội vàng đứng ra bên vực các viên quản lý này và đảm bảo rằng việc này không xảy ra. Cũng như Bob Dole, bấy giờ là một nghị sĩ Cộng hòa, đã tuyên bố từ năm 1982: “Người nghèo không đóng góp vào quĩ vận động tranh cử”.

MOCKING THE AMERICAN PROMISE

This inequality is the ill that underlies all the others. Like an odorless gas, it pervades every corner of the United States and saps the strength of the country’s democracy. But it seems impossible to find the source and shut it off. For years, certain politicians and pundits denied that it even existed. But the evidence became overwhelming. Between 1979 and 2006, middle-class Americans saw their annual incomes after taxes increase by 21 percent (adjusted for inflation). The poorest Americans saw their incomes rise by only 11 percent. The top one percent, meanwhile, saw their incomes increase by 256 percent. This almost tripled their share of the national income, up to 23 percent, the highest level since 1928. The graph that shows their share over time looks almost flat under Kennedy, Johnson, Nixon, Ford, and Carter, followed by continual spikes under Reagan, the elder Bush, Clinton, and the younger Bush.

LỜI HỨA HẸN CỦA MỸ QUỐC ĐÃ TRỞ THÀNH MAI MỈA

Sự bất bình đẳng xã hội là tệ nạn làm đầu mối cho nhiều tệ nạn khác. Cũng như một loại khí không mùi, bất bình đẳng xã hội đã thấm vào mọi ngỏ ngách nước Mỹ và làm suy yếu nền dân chủ nước này. Nhưng không ai tìm ra được nguồn gốc để khoá hẳn luồng khí đó lại. Qua nhiều năm, một số chính khách và học giả thậm chí không nhìn nhận sự hiện hữu của tình trạng bất bình đẳng này. Nhưng bằng chứng của sự chênh lệch giàu-nghèo ngày càng tràn ngập. Từ năm 1979 đến năm 2006, lợi tức hằng năm sau khi trừ thuế của người Mỹ trung lưu đã tăng lên 21% (được điều chỉnh vì lạm phát). Những người Mỹ nghèo nhất chỉ thấy lợi tức của mình tăng thêm 11%. Trong khi đó 1% dân số ở chóp bu có lợi tức tăng thêm 256%. Mức tăng này đã khiến tỉ lệ lợi tức của họ so với lợi tức quốc gia tăng lên gấp ba, lên tới con số 23%, tức là mức cao nhất từ năm 1928. Đường biểu đồ lợi tức của họ qua thời gian trông gần như bằng phẳng dưới các đời Tổng thống Kennedy, Johnson, Nixon, Ford, và Carter, nhưng tiếp theo đó là các đợt gia tăng đột biến liên tục dưới các đời Tổng thống Reagan, Bush Cha, Clinton và Bush Con.

Some argue that this inequality was an unavoidable result of deeper shifts: global competition, cheap goods made in China, technological changes. Although those factors played a part, they have not been decisive. In Europe, where the same changes took place, inequality has remained much lower than in the United States. The decisive factor has been politics and public policy: tax rates, spending choices, labor laws, regulations, campaign finance rules. Book after book by economists and other scholars over the past few years has presented an airtight case: over the past three decades, the government has consistently favored the rich. This is the source of the problem: our leaders, our institutions.

Có người tranh luận rằng tình trạng bất bình đẳng nghiêm trọng này là một hậu quả tất yếu của những biến chuyển sâu rộng hơn: sự cạnh tranh toàn cầu, hàng hóa rẻ làm tại Trung Quốc, những thay đổi công nghệ. Mặc dù những yếu tố này có đóng một vai trò, nhưng không phải là vai trò quyết định. Tại châu Âu, nơi những diễn biến như thế cũng xảy ra, nhưng tình trạng bất bình đẳng vẫn còn dễ chịu hơn Mỹ nhiều. Yếu tố quyết định từ lâu vẫn là chính trị và chính sách công (politics and public policy). Rất nhiều tác phẩm nghiên cứu của các nhà kinh tế và các học giả trong vài năm qua đã trình bày một trường hợp chắc nịch là: trong ba thập niên qua, Chính phủ đã liên tục dành ưu đãi cho người giàu. Đây là cốt lõi của vấn đề: các lãnh đạo chính trị của chúng ta, các cơ chế của chúng ta.

But even more fundamental than public policy is the long-term transformation of the manners and morals of American elites — what they became willing to do that they would not have done, or even thought about doing, before. Political changes precipitated, and in turn were aided by, deeper changes in norms of responsibility and self-restraint. In 1978, it might have been economically feasible and perfectly legal for an executive to award himself a multimillion-dollar bonus while shedding 40 percent of his work force and requiring the survivors to take annual furloughs without pay. But no executive would have wanted the shame and outrage that would have followed — any more than an executive today would want to be quoted using a racial slur or photographed with a paid escort. These days, it is hard to open a newspaper without reading stories about grotesque overcompensation at the top and widespread hardship below. Getting rid of a taboo is easier than establishing one, and once a prohibition erodes, it can never be restored in quite the same way. As Leo Tolstoy wrote, “There are no conditions of life to which a man cannot get accustomed, especially if he sees them accepted by everyone around him.”

Nhưng còn cơ bản hơn cả chính sách công, đó là sự chuyển hóa dài hạn về tư cách và đạo lý của giai cấp chóp bu trong xã hội Mỹ –những gì bây giờ họ sẵn sàng làm mà ngày xưa họ nhất định không làm, hay thậm chỉ không nghĩ đến việc làm điều đó. Những thay đổi chính trị đã thúc đẩy, rồi lại được hổ trợ bởi, những thay đổi sâu sắc trong các chuẩn mực về trách nhiệm và tự chế. Vào thời điểm 1978, có lẽ vẫn là một điều khả thi về mặt kinh tế và hoàn toàn hợp pháp nếu một giám đốc công ty tự thưởng cho mình hằng triệu đôla trong khi sa thải 40% số nhân viên và đòi hỏi những người ở lại hằng năm phải nghỉ phép không lương. Nhưng lúc bấy giờ không một lãnh đạo công ty nào muốn chuốc lấy ô nhục và phẫn nộ do một hành động như thế — cũng như một giám đốc công ty ngày nay không muốn bị trích dẫn là đã dùng một từ miệt thị chủng tộc hay bị chụp ảnh chung với một nữ hộ tống có trả tiền (paid escort). Ngày nay, thật khó tưởng tượng khi mở ra một tờ báo mà không chứng kiến những tin tức liên quan đến những món tiền thù lao kếch sù trắng trợn ở giới chóp bu và những khó khăn vật chất diễn ra đều khắp ở các tầng lớp bên dưới. Xoá bỏ một điều cấm kỵ là dễ dàng hơn tạo ra một điều cấm kỵ, và khi một điều cấm kỵ bị xói mòn, thì khó hồi phục nó lại như trước. Như Leo Tolstoy đã viết, “Không có một hoàn cảnh sinh sống nào mà con người không thể làm quen, nhất là khi anh ta thấy nó được mọi người chung quanh chấp nhận”.

The persistence of this trend toward greater inequality over the past 30 years suggests a kind of feedback loop that cannot be broken by the usual political means. The more wealth accumulates in a few hands at the top, the more influence and favor the well-connected rich acquire, which makes it easier for them and their political allies to cast off restraint without paying a social price. That, in turn, frees them up to amass more money, until cause and effect become impossible to distinguish. Nothing seems to slow this process down — not wars, not technology, not a recession, not a historic election. Perhaps, out of a well-founded fear that the country is coming apart at the seams, the wealthy and their political allies will finally have to rein themselves in, and, for example, start thinking about their taxes less like Stephen Schwarzman and more like Warren Buffett.

Sự dai dẳng của xu thế này — một xu thế đã đưa đến tình trạng bất bình đẳng ngày càng trầm trọng trong vòng 30 năm qua – cho thấy một cái vòng luẩn quẩn mà nước Mỹ không thể thoát ra được bằng các đường lối chính trị thông thường. Khi của cải càng ngày càng tập trung trong tay một thiểu số, thì giới giàu có cánh thế sẽ có thêm nhiều ảnh hưởng và hưởng thêm nhiều đặc quyền. Do đó, thiểu số này và các đồng minh chính trị của họ dễ dàng rủ bỏ sự tự chế mà khỏi phải trả giá về mặt xã hội. Sự dễ dãi này tiếp đó sẽ cho phép họ tự do tích lũy thêm nhiều tiền của, cho đến khi người ta không phân biệt được đâu là nguyên nhân và đâu là hậu quả. Hình như không có gì có thể hãm bớt tiến trình này – dù đó là chiến tranh, dù đó là tác động của công nghệ, dù đó là một cuộc bầu cử lịch sử. Có lẽ, do một sự lo sợ chính đáng là đất nước đang đi tới chỗ suy bại, giới giàu có và đồng minh chính trị của họ cuối cùng sẽ phải biết tự chế và, chẳng hạn, bắt đầu thay đổi tư duy về thuế má — dần dần khác với Stephen Schwarzman và ngày càng giống như Warren Buffet.

In the meantime, inequality will continue to mock the American promise of opportunity for all. Inequality creates a lopsided economy, which leaves the rich with so much money that they can binge on speculation, and leaves the middle class without enough money to buy the things they think they deserve, which leads them to borrow and go into debt. These were among the long-term causes of the financial crisis and the Great Recession. Inequality hardens society into a class system, imprisoning people in the circumstances of their birth — a rebuke to the very idea of the American dream. Inequality divides us from one another in schools, in neighborhoods, at work, on airplanes, in hospitals, in what we eat, in the condition of our bodies, in what we think, in our children’s futures, in how we die. Inequality makes it harder to imagine the lives of others — which is one reason why the fate of over 14 million more or less permanently unemployed Americans leaves so little impression in the country’s political and media capitals. Inequality corrodes trust among fellow citizens, making it seem as if the game is rigged. Inequality provokes a generalized anger that finds targets where it can — immigrants, foreign countries, American elites, government in all forms — and it rewards demagogues while discrediting reformers. Inequality saps the will to conceive of ambitious solutions to large collective problems, because those problems no longer seem very collective. Inequality undermines democracy.

Trong khi đó, tình trạng bất bình đẳng sẽ tiếp tục chế nhạo lời hứa hẹn của nước Mỹ về cơ hội đồng đều cho mọi người dân. Bất bình đẳng tạo ra một nền kinh tế khập khễnh, đưa đến tình trạng người giàu nắm trong tay quá nhiều tiền của để tha hồ đầu cơ kiếm lợi trong khi giai cấp trung lưu không có đủ tiền để mua sắm những thứ mà họ cho rằng họ xứng đáng được hưởng, do đó họ phải đi vay mượn và lún sâu vào nợ nần. Những điều vừa nói nằm trong những nguyên nhân dài hạn đã dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính và cuộc Đại suy thoái hiện nay. Bất bình đẳng sẽ biến xã hội thành một hệ thống giai cấp, giam hãm con người trong hoàn cảnh họ sinh ra — một lời nguyền rủa đối với chính ý niệm giấc mơ Mỹ. Bất bình đẳng ngăn cách chúng ta với nhau trong trường học, trong láng giềng, ở sở làm, trên máy bay, trong bệnh viện, trong đồ ăn thức uống, trong điều kiện thể chất, trong những gì chúng ta nghĩ, trong tương lai của con cái chúng ta, trong cách chúng ta chết. Bất bình đẳng làm cho nhiều người không tưởng tượng ra được đời sống của tha nhân – đó là một lý do vì sao số phận của hơn 14 triệu người Mỹ gần như thất nghiệp vĩnh viễn không để lại dấu ấn đáng kể nào trong thủ đô chính trị và trong thủ đô truyền thông của nước Mỹ. Bất bình đẳng xoái mòn lòng tin tưởng lẫn nhau giữa người dân trong cùng một nước, như thể mọi người đang ở trong một trò cờ gian bạc bịp. Bất bình đẳng dấy lên một sự phẫn nộ rộng lớn, một sự phẫn nộ nhắm vào mục tiêu ở bất cứ nơi nào nó có thể tìm ra đối tượng — chẳng hạn, người nhập cư, các nước ngoài, giới thượng lưu, mọi dạng thức chính quyền – và nó tưởng thưởng những kẻ mị dân trong khi làm mất uy tín những nhà cải cách. Bất bình đẳng làm suy yếu quyết tâm tìm kiếm những giải pháp đầy tham vọng cho các vấn đề tập thể to lớn, vì trong mắt của nhiều người, những vấn đề này không còn mang tính tập thể cao. Bất bình đẳng kinh tế-xã hội có tác dụng xói mòn dân chủ.


Lời người dịch: Mặc dù bài tiểu luận không hề nói đến các cuộc biểu tình của Phong trào Occupy Wall Street, nhưng nó giải thích những nguyên nhân sâu xa đã đưa đến phản ứng dữ dội của phong trào này đối với giới tài phiệt Mỹ, tầng lớp chóp bu chiếm 1% dân số nhưng nắm giữ 23% tài sản quốc gia. Nền dân chủ Mỹ, đặt cơ sở trên giai cấp trung lưu, đã và đang bị giới tài phiệt đánh tráo xuyên qua các hành vi như nỗ lực vận động hành lang của các nhóm lợi ích, các ủy ban vận động tài chính tranh cử (political action committees), các quảng cáo trên TV. Bất bình đẳng xã hội là một đe dọa nghiêm trọng đối với thể chế dân chủ Mỹ


Translated by Trần Ngọc Cư

http://drftwd.tumblr.com/post/11471025572/the-broken-contract-inequality-and-american