MENU

BILINGUAL BLOG – BLOG SONG NGỮ ANH VIỆT SHARE KNOWLEGE AND IMPROVE LANGUAGE

--------------------------- TÌM KIẾM TRÊN BLOG NÀY BẰNG GOOGLE SEARCH ----------------------------

TXT-TO-SPEECH – PHẦN MỀM ĐỌC VĂN BẢN

Click phải, chọn open link in New tab, chọn ngôn ngữ trên giao diện mới, dán văn bản vào và Click SAY – văn bản sẽ được đọc với các thứ tiếng theo hai giọng nam và nữ (chọn male/female)

- HOME - VỀ TRANG ĐẦU

CONN'S CURENT THERAPY 2016 - ANH-VIỆT

150 ECG - 150 ĐTĐ - HAMPTON - 4th ED.

VISUAL DIAGNOSIS IN THE NEWBORN

Tuesday, August 23, 2011

Steve Jobs' 2005 Stanford Commencement Address Diễn từ của Steve Jobs tại lễ tốt nghiệp



'You've got to find what you love,' Jobs says - Bạn phải tìm thấy cái bạn yêu thương



Thank you. I am honored to be with you today at your commencement from one of the finest universities in the world. I never graduated from college. Truth be told, this is the closest I've ever gotten to a college graduation. Today I want to tell you three stories from my life. That's it. No big deal. Just three stories.
The first story is about connecting the dots.
Cảm ơn các bạn. Tôi lấy làm hân hạnh được có mặt với các bạn hôm nay trong ngày phát bằng tốt nghiệp của các bạn, tại một trong những trường Ðại học tuyệt vời nhất trên thế giới. Phải nói thật là tôi chưa bao giờ tốt nghiệp đại học, và đây là dịp gần giống lễ tốt nghiệp đại học nhất mà tôi có được. Hôm nay tôi muốn kể với các bạn ba câu chuyện từ cuộc đời của tôi. Vâng, chỉ có vậy thôi. Chẳng có gì to tát cả. Chỉ ba câu chuyện. Câu chuyện đầu tiên là về việc nối các điểm [lại với nhau].
I dropped out of Reed College after the first 6 months, but then stayed around as a drop-in for another 18 months or so before I really quit. So why did I drop out?
Tôi bỏ học giữa chừng ở trường Reed College sau 6 tháng đầu, nhưng vẫn lưu lại dự một số lớp dự thính, thêm khoảng 18 tháng nữa trước khi tôi thực sự bỏ học. Vậy thì tại sao tôi lại bỏ học giữa chừng?
It started before I was born. My biological mother was a young, unwed college graduate student, and she decided to put me up for adoption. She felt very strongly that I should be adopted by college graduates, so everything was all set for me to be adopted at birth by a lawyer and his wife. Except that when I popped out they decided at the last minute that they really wanted a girl. So my parents, who were on a waiting list, got a call in the middle of the night asking: "We have an unexpected baby boy; do you want him?" They said: "Of course." My biological mother later found out that my mother had never graduated from college and that my father had never graduated from high school. She refused to sign the final adoption papers. She only relented a few months later when my parents promised that I would someday go to college.
Ðiều đó đã bắt đầu từ trước khi tôi được sinh ra. Bà mẹ đẻ (nguyên văn: mẹ sinh học – biological mother) của tôi là một sinh viên cao học trẻ chưa cưới hỏi, và bà đã quyết định cho tôi làm con nuôi. Bà ta cảm nhận một cách mạnh mẽ rằng tôi cần phải được nhận nuôi bởi những người tốt nghiệp đại học, và vì vậy tất cả mọi thứ giường như đã được sắp đặt cho tôi được một luật sư và vợ của ông ta nhận làm con nuôi ngay khi sinh ra, ngoại trừ một điều là khi tôi vừa lọt lòng chui ra, tới phút cuối cùng họ đã quyết định rằng họ thực sự muốn một đứa con gái. Và thế là, cha mẹ tôi, những người trong danh sách chờ đợi [nhận con nuôi], nhận được một cú điện thoại vào lúc nửa đêm hỏi “Chúng tôi có một cậu bé ngoài sự mong đợi, ông bà có muốn cậu bé đó không?” Họ trả lời “Tất nhiên rồi”. Bà mẹ đẻ của tôi sau này phát hiện ra rằng mẹ tôi chưa bao giờ tốt nghiệp đại học và bố tôi chưa từng tốt nghiệp phổ thông. Bà từ chối ký vào các giấy tờ cuối cùng cho việc cho con nuôi. Bà chỉ nhượng bộ một vài tháng sau đó, khi cha mẹ tôi hứa rằng tôi sẽ vào học đại học.
And 17 years later I did go to college. But I naively chose a college that was almost as expensive as Stanford, and all of my working-class parents' savings were being spent on my college tuition. After six months, I couldn't see the value in it. I had no idea what I wanted to do with my life and no idea how college was going to help me figure it out. And here I was spending all of the money my parents had saved their entire life. So I decided to drop out and trust that it would all work out OK. It was pretty scary at the time, but looking back it was one of the best decisions I ever made. The minute I dropped out I could stop taking the required classes that didn't interest me, and begin dropping in on the ones that looked interesting.
Ðó là sự khởi đầu cuộc đời của tôi. Và 17 năm sau đó, tôi đã vào đại học, nhưng tôi đã ngây thơ chọn một trường mà tốn kém cũng gần như bằng trường Stanford, và thế là tất cả tiền tiết kiệm được của cha mẹ của tôi, vốn là những người thuộc giới lao động, đã được tiêu hết cho tiền học phí của tôi. Sau sáu tháng, tôi không thấy đáng giá trong việc học hành đó. Tôi hoàn toàn không biết cái gì là cái tôi mà muốn làm với cuộc đời của tôi, và cũng không biết trường đại học có thể giúp cho tôi tìm ra điều đó như thế nào, thế mà tôi đã tiêu toàn bộ số tiền mà cha mẹ tôi đã giành dụm được trong suốt cả cuộc đời của họ. Thế là tôi quyết định bỏ học và sự thực là tất cả mọi chuyện cũng đã xảy ra một cách OK. Lúc đó cũng khá đáng sợ, nhưng nhìn lại, đó là một trong những quyết định tốt nhất mà tôi đã thực hiện. Giây phút tôi bỏ học, tôi có thể thôi lấy các lớp yêu cầu bắt buộc mà tôi không thích, và bắt đầu đến nghe dự thính những lớp mà tôi thấy thú vị hơn nhiều.
It wasn't all romantic. I didn't have a dorm room, so I slept on the floor in friends' rooms, I returned coke bottles for the 5¢ deposits to buy food with, and I would walk the 7 miles across town every Sunday night to get one good meal a week at the Hare Krishna temple. I loved it. And much of what I stumbled into by following my curiosity and intuition turned out to be priceless later on. Let me give you one example:
Chẳng phải tất cả mọi chuyện đều lãng mạn như vậy. Tôi không có phòng kí túc xá, và thế là tôi ngủ trên nền trong phòng của bạn bè. Tôi đem trả chai lọ Coke với 5 xu/lọ để mua thức ăn và tôi đi bộ 7 dặm (cỡ 11-12 km) xuyên qua thành phố mỗi tối Chủ nhật để nhận được một bữa tối ngon lành tại ngôi đền Hare Krishna. Tôi yêu quí ngôi đền đó. Và hầu hết tất cả những gì mà tôi vấp ngã do theo đuổi sự ham hiểu biết cũng như trực giác của mình, sau này hóa ra là vô giá. Ðể tôi đưa ra cho các bạn một ví dụ.
Reed College at that time offered perhaps the best calligraphy instruction in the country. Throughout the campus every poster, every label on every drawer, was beautifully hand calligraphed. Because I had dropped out and didn't have to take the normal classes, I decided to take a calligraphy class to learn how to do this. I learned about serif and san serif typefaces, about varying the amount of space between different letter combinations, about what makes great typography great. It was beautiful, historical, artistically subtle in a way that science can't capture, and I found it fascinating.
Vào lúc bấy giờ Reed College là trường có lẽ có một chương trình hướng dẫn thuật viết chữ tốt nhất trong cả nước. Trong khắp khu trường, tất cả các tấm áp phích quảng cáo, các biển trên các tất cả các bảng đều được viết tay tuyệt đẹp. Bởi vì tôi đã bỏ học và không phải đến dự các lớp thông thường, tôi quyết định lấy một lớp về thuật viết chữ để học viết như thế nào. Tôi học về các kiểu mặt chữ serif và sans serif, về thay đổi khoảng cách giữa các tổ hợp chữ khác nhau, về cái gì làm cho kiểu in đẹp. Ðó là tinh tế nghệ thuật, đẹp, có tính cách lịch sử theo một cung cách mà khoa học không thể nào nắm bắt được, và tôi thấy nó thực là quyến rũ.
None of this had even a hope of any practical application in my life. But ten years later, when we were designing the first Macintosh computer, it all came back to me. And we designed it all into the Mac. It was the first computer with beautiful typography. If I had never dropped in on that single course in college, the Mac would have never had multiple typefaces or proportionally spaced fonts. And since Windows just copied the Mac, it's likely that no personal computer would have them. If I had never dropped out, I would have never dropped in on this calligraphy class, and personal computers might not have the wonderful typography that they do.
Chẳng có gì trong đó thậm chí có hy vọng ứng dụng thực tế trong cuộc đời tôi. Nhưng 10 năm sau khi chúng tôi thiết kế chiếc máy tính Macintosh đầu tiên, tất cả những điều đó trở lại với tôi, và chúng tôi đã thiết kế tất cả những cái đó thành chiếc Mac. Ðó là chiếc máy tính đầu tiên với thuật in máy tuyệt đẹp. Nếu tôi đã không dự lớp học dự thích trong một buổi học ở trường, chiếc Mac có lẽ không bao giờ có nhiều kiểu chữ hoặc các phông (font) chữ được đặt các khoảng cách tỷ lệ thích hợp, và vì Windows chỉ đơn thuần bắt chước Mac, rất có thể các máy tính cá nhân cũng sẽ không có các kiểu chữ như thế. Nếu tôi đã không bỏ học giữa chừng, có lẽ tôi cũng không bao giờ dự lớp dự thính vào buổi học thuật in chữ đó và các máy tính cá nhân có lẽ sẽ không có kiểu in chữ tuyệt vời mà chúng có ngày hôm nay.
Of course it was impossible to connect the dots looking forward when I was in college. But it was very, very clear looking backwards ten years later. Again, you can't connect the dots looking forward; you can only connect them looking backwards. So you have to trust that the dots will somehow connect in your future. You have to trust in something — your gut, destiny, life, karma, whatever. This approach has never let me down, and it has made all the difference in my life.
Dĩ nhiên lúc đang còn ở trong trường tôi không thể nào kết nối các điểm đó lại với nhau khi nhìn về tương lai phía trước, nhưng điều đó là rất, rất rõ khi nhìn lại 10 năm sau. Một lần nữa, bạn không thể kết nối các điểm khi nhìn về tương lai. Bạn chỉ có thể kết nối các điểm khi nhìn ngược trở lại, vì thế các bạn phải tin rằng các điểm đó sẽ được nối kết như thế nào đó trong tương lai của các bạn. Bạn phải tin vào điều gì đó, vào bản năng, vào số mệnh, cuộc sống, nghiệp lực của bạn, vào bất cứ cái gì – bởi vì tin tưởng rằng các điểm đó sẽ kết nối thành một con đường sẽ tạo cho bạn một niềm tin để đi theo con tim của bạn, ngay cả khi nó dẫn bạn chệch ra khỏi con đường cũ mòn, và điều đó sẽ làm tất cả trở nên khác đi.
My second story is about love and loss.
Câu chuyện thứ hai của tôi là về tình yêu và mất mát
I was lucky — I found what I loved to do early in life. Woz and I started Apple in my parents garage when I was 20. We worked hard, and in 10 years Apple had grown from just the two of us in a garage into a $2 billion company with over 4000 employees. We had just released our finest creation — the Macintosh — a year earlier, and I had just turned 30. And then I got fired. How can you get fired from a company you started? Well, as Apple grew we hired someone who I thought was very talented to run the company with me, and for the first year or so things went well. But then our visions of the future began to diverge and eventually we had a falling out. When we did, our Board of Directors sided with him. So at 30 I was out. And very publicly out. What had been the focus of my entire adult life was gone, and it was devastating.
Câu chuyện thứ hai của tôi là về tình yêu và mất mát. Tôi là một người may mắn. Tôi đã sớm tìm thấy cái mà tôi yêu thích để làm trong cuộc đời. Woz và tôi đã khởi đầu [công ty] Apple trong cái nhà xe của cha mẹ tôi khi tôi mới 20 tuổi. Chúng tôi làm việc vất vả trong 10 năm, Apple đã phát triển từ chỗ chỉ có hai chúng tôi trong một cái nhà xe thành một công ty trị giá 2 tỷ đô la với hơn 4000 nhân viên. Một năm trước, chúng tôi vừa mới tung ra một sản phẩm tuyệt vời nhất của chúng tôi, chiếc Macintosh, và tôi mới vừa tròn 30 tuổi, và thế rồi tôi bị đuổi việc. Làm sao mà anh lại có thể bị mất việc từ công ty do anh sáng lập ra? Vậy đó, khi Apple phát triển, chúng tôi thuê một người mà tôi nghĩ là rất tài giỏi để điều hành công ty cùng với tôi, và trong khoảng một năm đầu mọi việc đều trôi chảy tốt đẹp. Nhưng sau đó định hướng về tương lai của chúng tôi bắt đầu trở nên phân rẽ, và cuối cùng chúng tôi trở nên bất hòa. Khi chúng tôi bất hòa, Ban giám đốc công ty ngả về phe của anh ta, và thế là vào lúc 30 tuổi, tôi bị loại ra và loại ra một cách rất công khai. Cái đã là toàn bộ sự tập trung của cả cuộc đời của tôi khi đã trưởng thành đã mất, và điều đó thật là tàn tệ.
I really didn't know what to do for a few months. I felt that I had let the previous generation of entrepreneurs down - that I had dropped the baton as it was being passed to me. I met with David Packard and Bob Noyce and tried to apologize for screwing up so badly. I was a very public failure, and I even thought about running away from the valley. But something slowly began to dawn on me — I still loved what I did. The turn of events at Apple had not changed that one bit. I had been rejected, but I was still in love. And so I decided to start over.
Tôi thực sự không biết phải làm gì trong vài tháng. Tôi cảm thấy rằng tôi đã để cho thế hệ doanh nhân trước hạ gục, và tôi đã để rơi cái gậy chỉ huy khi nó đã được truyền lại cho tôi. Tôi đã gặp David Packard và Bob Noyce và đã cố xin lỗi vì đã làm hỏng công việc một cách thật tệ hại. Tôi đã là một sự thất bại rất công khai, và thậm chí tôi đã nghĩ đến việc bỏ đi khỏi vùng Thung Lũng [Silicon] này. Nhưng một cái gì đó đã từ từ lóe lên trong trí óc tôi. Và tôi vẫn còn yêu thích cái mà tôi đã làm. Bước ngoặt của các sự kiện xảy ra tại Apple đã không làm thay đổi điều đó một chút nào. Tôi đã bị loại bỏ nhưng tôi vẫn đang còn yêu. Và thế là tôi quyết định làm lại từ đầu.
I didn't see it then, but it turned out that getting fired from Apple was the best thing that could have ever happened to me. The heaviness of being successful was replaced by the lightness of being a beginner again, less sure about everything. It freed me to enter one of the most creative periods of my life.
Lúc bấy giờ tôi chưa nhìn thấy điều đó, nhưng hóa ra bị mất việc ở Apple lại lạ một điều tốt nhất đã từng có thể xảy ra đối với tôi. Sự năng nề của sự thành công được thay thế bằng sự nhe nhàng thanh thản được làm lại người mới bắt đầu, kém chắc chắn về mọi thứ. Ðiều đó đã giải phóng cho tôi bước vào một trong những giai đoạn sáng tạo nhất của cuộc đời của tôi.
During the next five years, I started a company named NeXT, another company named Pixar, and fell in love with an amazing woman who would become my wife. Pixar went on to create the worlds first computer animated feature film, Toy Story, and is now the most successful animation studio in the world. In a remarkable turn of events, Apple bought NeXT, I returned to Apple, and the technology we developed at NeXT is at the heart of Apple's current renaissance. And Laurene and I have a wonderful family together.
Trong vòng 5 năm tiếp theo tôi đã khởi đầu một công ty mới tên NeXT, một công ty khác nữa tên Pixar và đã yêu một người đàn bà tuyệt vời, là người đã trở thành vợ của tôi. Tiếp theo, Pixar đã tạo ra bộ phim hoạt hình máy tính đặc biệt đầu tiên, “Toy Story”, và hiện nay là xưởng phim hoạt hình thành công nhất trên thế giới. Trong các sự kiện có tính bước ngoặt, Apple mua lại NexT, và thế là tôi quay trở lại Apple và công nghệ chúng tôi đã phát triển tại NexT trở thành trung tâm của sự phục hưng hiện nay của Apple, và Lorene và tôi có một gia đình tuyệt vời cùng với nhau.
I'm pretty sure none of this would have happened if I hadn't been fired from Apple. It was awful tasting medicine, but I guess the patient needed it. Sometimes life hits you in the head with a brick. Don't lose faith. I'm convinced that the only thing that kept me going was that I loved what I did. You've got to find what you love. And that is as true for your work as it is for your lovers. Your work is going to fill a large part of your life, and the only way to be truly satisfied is to do what you believe is great work. And the only way to do great work is to love what you do. If you haven't found it yet, keep looking. Don't settle. As with all matters of the heart, you'll know when you find it. And, like any great relationship, it just gets better and better as the years roll on. So keep looking until you find it. Don't settle.
Tôi tin chắc chắn rằng chẳng có điều gì trên đây đã có thể xảy ra nếu tôi không bị đuổi việc khỏi Apple. Ðó là một liều thuốc có vị kinh khủng, nhưng tôi nghĩ người bệnh cần đến nó. Ðôi khi cuộc đời sẽ giáng gạch vào đầu anh. Ðừng đánh mất niềm tin. Tôi tin chắc rằng điều duy nhất giữ cho tôi tiếp tục là tôi đã yêu thích cái mà tôi đã làm. Bạn phải tìm được cái mà bạn yêu thích, và đó là thực sự đúng với công việc cũng như với những người mà bạn yêu thương. Công việc của bạn sẽ lấp một phần lớn của cuộc đời của bạn, và cách duy nhất để thực sự thỏa mãn là làm cái mà bạn tin là một công việc tuyệt vời, và cách duy nhất để làm công việc tuyệt vời là yêu cái mà bạn làm. Nếu bạn chưa tìm thấy điều đó, hãy tiếp tục tìm kiếm, và đừng dừng lại thoả mãn. Cũng như các vấn đề của con tim, bạn sẽ biết khi nào bạn sẽ tìm được nó, và cũng như bất cứ một mối quan hệ tốt đẹp nào nó sẽ trở nên tốt hơn và tốt hơn khi năm tháng trôi qua. Vì thế hãy cố tìm kiếm. Ðừng dừng lại thoả mãn.
My third story is about death.
Câu chuyện thứ ba là về cái chết
When I was 17, I read a quote that went something like: "If you live each day as if it was your last, someday you'll most certainly be right." It made an impression on me, and since then, for the past 33 years, I have looked in the mirror every morning and asked myself: "If today were the last day of my life, would I want to do what I am about to do today?" And whenever the answer has been "No" for too many days in a row, I know I need to change something.
Câu chuyện thứ ba của tôi là về cái chết. Khi tôi 17 tuổi tôi đọc một câu trích dẫn đại ý nói rằng “Nếu bạn sống mỗi ngày như đó là ngày cuối cùng của bạn, một ngày nào đó chắc chắn bạn sẽ đúng”. Nó tạo ra cho tôi một ấn tượng, và kể từ đó trong suốt 33 năm qua, tôi đã nhìn vào gương vào mỗi buổi sáng và tự hỏi “Nếu hôm nay là ngày cuối cùng của đời tôi, liệu tôi có muốn làm cái mà tôi đã định làm vào ngày hôm nay?” Và bất cứ khi nào câu trả lời là “không” cho một chuỗi quá nhiều ngày, tôi biết là tôi cần thay đổi điều gì đó.
Remembering that I'll be dead soon is the most important tool I've ever encountered to help me make the big choices in life. Because almost everything — all external expectations, all pride, all fear of embarrassment or failure - these things just fall away in the face of death, leaving only what is truly important. Remembering that you are going to die is the best way I know to avoid the trap of thinking you have something to lose. You are already naked. There is no reason not to follow your heart.
Nên nhớ rằng tôi [biết] sẽ bị chết sớm là điều quan trọng nhất mà tôi phải đương đầu để giúp tôi thực hiện những lựa chọn lớn của cuộc đời, bởi vì hầu như tất cả mọi thứ – tất cả sự mong đợi ở thế giới bên ngoài, tất cả niềm kiêu hãnh, tất cả sợ hãi hoặc xấu hổ hoặc thất bại – những điều đó sẽ biến mất khi đứng trước cái chết, chỉ để lại cái thực sự quan trọng mà thôi. Nên nhớ rằng anh sẽ chết là phương cách tốt nhất mà tôi biết được để tránh cái bẫy của sự suy nghĩ cho là anh có cái gì đó để mà mất mát. Bạn đã bị lột truồng [lúc chết] rồi. Chẳng có lý do nào mà không làm theo con tim của bạn.
About a year ago I was diagnosed with cancer. I had a scan at 7:30 in the morning, and it clearly showed a tumor on my pancreas. I didn't even know what a pancreas was. The doctors told me this was almost certainly a type of cancer that is incurable, and that I should expect to live no longer than three to six months. My doctor advised me to go home and get my affairs in order, which is doctor's code for prepare to die. It means to try to tell your kids everything you thought you'd have the next 10 years to tell them in just a few months. It means to make sure everything is buttoned up so that it will be as easy as possible for your family. It means to say your goodbyes.
Cách nay khoảng 1 năm, tôi bị chẩn đoán phát hiện ung thư. Tôi có một cuộc khám chụp soi máy vào lúc 7:30 buổi sáng và kết quả chụp cho thấy rõ ràng một khối u trong tụy của tôi. Tôi thậm chí chẳng biết tụy là cái gì. Các bác sỹ bảo tôi gần như chắc chắn đó là một dạng ung thư, và nó không chữa được, và rằng tôi nên chờ đợi sống thêm không quá từ 3 đến 6 tháng nữa. Bác sỹ của tôi khuyên tôi về nhà và thu xếp mọi chuyện cho ổn thỏa, là ngôn từ của bác sỹ cho “chuẩn bị để chết”. Nó có nghĩa là cố gắng và nói cho các con của bạn mọi thứ bạn nghĩ bạn có thể có trong 10 năm tới để nói với chúng trong vòng chỉ vài tháng. Nó có nghĩa là thu xếp hoàn tất mọi chuyện sao cho việc đó sẽ xảy ra một cách dễ dàng nhất có thể được cho gia đình của bạn. Nó có nghĩa là nói những lời tạm biệt của bạn.
I lived with that diagnosis all day. Later that evening I had a biopsy, where they stuck an endoscope down my throat, through my stomach and into my intestines, put a needle into my pancreas and got a few cells from the tumor. I was sedated, but my wife, who was there, told me that when they viewed the cells under a microscope the doctors started crying because it turned out to be a very rare form of pancreatic cancer that is curable with surgery. I had the surgery and I'm fine now.
Tôi đã sống cả ngày với chẩn đoán như thế. Cuối chiều ngày hôm đó tôi có một cuộc xét nghiệm sinh thiết (biopsy) ở chỗ họ đút một cái ống soi vào, qua họng của tôi, xuyên qua dạ dày vào trong ruột của tôi, đăt 1 cái kim vào trong tụy của tôi và lấy ra vài tế bào của khối u. Tôi đã bị gây mê nhưng vợ tôi vốn đang ở đó nói cho tôi biết rằng khi họ xem các tế bào dưới kính hiển vi, vị bác sỹ bắt đầu khóc bởi vì hóa ra đó là một dạng rất hiếm của ung thư tuyến tụy có thể chữa trị được với một cuộc phẫu thuật. Tôi đã được phẫu thuật và thật là biết ơn, giờ đây tôi đã khỏe lại bình thường.
This was the closest I've been to facing death, and I hope it's the closest I get for a few more decades. Having lived through it, I can now say this to you with a bit more certainty than when death was a useful but purely intellectual concept:
Ðó là lần gần gũi nhất với cái chết mà tôi phải đối mặt, và tôi hy vọng nó là lần gần nhất mà tôi có được trong vài thập kỷ nữa. Ðã từng sống trải qua như thế, giờ đây tôi có thể nói điều này với các bạn với một chút chắc chắn hơn, khi cái chết đã là một khái niệm hữu ích nhưng là một khái niệm thuần túy trí tuệ.
No one wants to die. Even people who want to go to heaven don't want to die to get there. And yet death is the destination we all share. No one has ever escaped it. And that is as it should be, because Death is very likely the single best invention of Life. It is Life's change agent. It clears out the old to make way for the new. Right now the new is you, but someday not too long from now, you will gradually become the old and be cleared away. Sorry to be so dramatic, but it is quite true.
Không một ai muốn chết, ngay cả với những người muốn lên Thiên Ðường cũng không muốn chết để tới được đó, vậy nhưng, cái chết là một cái đích mà tất cả chúng ta đều cùng chia sẻ. Không một ai có thể thoát được cái chết. Và đó cũng là điều nên như thế, bởi vì cái chết rất giống như sự sáng chế tốt nhất của sự sống. Ðó là tác nhân thay đổi của sự sống; nó quét sạch những cái cũ và dọn đường cho cái mới. Ngay lúc này đây, cái mới là các bạn. Nhưng một ngày nào đó, không quá xa từ bây giờ, các bạn sẽ dần trở nên già cũ và sẽ bị quét sạch đi. Xin lỗi vì quá kịch tính, nhưng điều đó khá là sự thực.
Your time is limited, so don't waste it living someone else's life. Don't be trapped by dogma — which is living with the results of other people's thinking. Don't let the noise of others' opinions drown out your own inner voice. And most important, have the courage to follow your heart and intuition. They somehow already know what you truly want to become. Everything else is secondary.
Thời gian của các bạn là có giới hạn, vì thế đừng phí phạm thời gian do sống bởi đời sống của kẻ khác. Ðừng bị mắc kẹt trong những điều giáo lý vốn [chỉ] sống với các kết quả suy nghĩ của người khác. Ðừng để sự ồn ào của những ý kiến, quan điểm của người khác dìm chết tiếng nói trong tâm hồn, con tim và trực giác của chính bạn. Bằng cách nào đó, chúng đã biết bạn thực sự muốn trở thành cái gì. Tất cả những cái khác chỉ là thứ yếu.
When I was young, there was an amazing publication called The Whole Earth Catalog, which was one of the bibles of my generation. It was created by a fellow named Stewart Brand not far from here in Menlo Park, and he brought it to life with his poetic touch. This was in the late 1960's, before personal computers and desktop publishing, so it was all made with typewriters, scissors, and polaroid cameras. It was sort of like Google in paperback form, 35 years before Google came along: it was idealistic, and overflowing with neat tools and great notions.
Khi tôi còn trẻ, có một ấn bản kỳ diệu được gọi là Danh Mục của Ðịa Cầu vốn [được coi] là một trong những kinh thánh của thế hệ của chúng tôi. Nó được tạo ra bởi một người tên là Stuart Brand ở Menlo Park cách đây không xa lắm, và ông ta đã đem nó cho đời với bút pháp đầy chất thi vị của mình. Lúc đó là vào cuối những năm Sáu mươi, trước khi máy tính cá nhân và xuất bản bằng máy tính ra đời, vì thế nó được tạo ra bởi máy chữ, kéo, và máy ảnh Polaroid. Nó là một kiểu giống như Google hình thức trên giấy 55 năm trước khi Goggle xuất hiện. Tôi đã là một người duy tâm, tràn đầy các công cụ tinh xảo và ý niệm to lớn.
Stewart and his team put out several issues of The Whole Earth Catalog, and then when it had run its course, they put out a final issue. It was the mid-1970s, and I was your age. On the back cover of their final issue was a photograph of an early morning country road, the kind you might find yourself hitchhiking on if you were so adventurous. Beneath it were the words: "Stay Hungry. Stay Foolish." It was their farewell message as they signed off. Stay Hungry. Stay Foolish. And I have always wished that for myself. And now, as you graduate to begin anew, I wish that for you.
Stuart và nhóm của ông ta đã xuất bản được một vài số Danh Mục của Ðịa Cầu, và khi đã hết khả năng, họ cho ra số cuối cùng. Lúc đó vào giữa những năm bảy mươi, và tôi vào cỡ tuổi của các bạn. Ở tấm bìa cuối của ấn bản số cuối cùng là một bức bức ảnh của một con đường thôn quê vào sáng sớm, giống như kiểu các bạn có thể thấy chính mình đi nhờ xe quá giang nếu các bạn là người thích phưu liêu mạo hiểm. Bên dưới bức ảnh là những chữ “Hãy giữ lấy sự thèm khát, hãy giữ lấy sự dại khờ”. Ðó là lời chia tay của họ khi họ ký chia tay “Hãy giữ lấy thèm khát, hãy giữ lấy dại khờ”. Và tôi luôn mong ước điều đó cho riêng tôi, và giờ đây khi các bạn tốt nghiệp để lại bắt đầu một cuộc đời mới, tôi xin chúc các bạn điều đó.


Stay Hungry. Stay Foolish.
Hãy cứ khao khát, hãy cứ dại khờ.
Thank you all very much.
Cảm ơn tất cả các bạn rất nhiều.

Translated by Nguyễn Dương

Four Spiritual Laws - Bốn Quy Tắc Tâm Linh



In India, they teach the "Four Spiritual Laws"

Người Ấn Độ dạy chúng ta về: “ Bốn Quy Tắc Tâm Linh”

The first says:

"The person who comes is the right person," meaning that nobody comes into our lives by chance, all the people around us, interacting with us, are there for something to make us learn and advance in every situation.

Quy tắc đầu tiên là: “Bất cứ người nào bạn gặp cũng đúng là người mà bạn cần gặp cả.”

Điều này có nghĩa rằng không ai xuất hiện trong cuộc đời chúng ta một cách tình cờ cả. Mỗi người xung quanh chúng ta, bất cứ ai chúng ta giao lưu, đều đại diện cho một điều gì đó, có thể là để dạy chúng ta điều gì đó hoặc giúp chúng ta cải thiện tình hình hiện tại.

The second law says:

"What happens is the only thing that could have happened."

Nothing, nothing, absolutely nothing happens to us in our lives might have been otherwise. Even the smallest detail.

There is no "if I had done such a thing ... it happened just the other ...." No. What happened was all that could have happened, and it must have been like for us to learn that lesson and move on.

Each and every one of the situations that happen in our lives are perfect, but our mind and ego to resist and do not want to accept it.

Quy tắc thứ hai là: “ Bất cứ điều gì xảy thì đó chính là điểu nên xảy ra.

"Không có điều gì, tuyệt đối không có điều gì chúng ta trải nghiệm lại nên khác đi cả. Thậm chí cả với những điều nhỏ nhặt ít quan trọng nhất. Không có; Nếu như tôi đã làm điều đó khác đi..., thì nó hẳn đã khác đi. Không. Những gì đã xảy ra chính là những gì nên xảy ra và phải xảy ra giúp chúng ta học ra bài học để tiến về phía trước. Bất kỳ tình huống nào trong cuộc đời mà chúng ta đối mặt đều tuyệt đối hoàn hảo, thậm chí cả khi nó thách thức sự hiểu biết và bản ngã của chúng ta.

The third says:

"Whenever it starts is the right time."

Everything starts at the right time, either before or after. When we are ready for something new start in our lives, that is when starts.

Quy tắc thứ ba là: “Trong mỗi khoảnh khắc, mọi sự đều bắt đầu vào đúng thời điểm.”

Mọi thứ bắt đầu vào đúng thời điểm, không sớm hơn hay muộn hơn. Khi chúng ta sẵn sàng cho nó, cho điều gì đó mới mẻ trong cuộc đời mình, thì nó sẽ có đó, sẵn sàng để bắt đầu.

The fourth and final:

"When something ends, it ends."

Just like that. If something ended up in our lives is for our evolution, so it is best to leave it, go ahead and move forward and enriched with the experience. I think it is coincidence that you are reading this, if this text comes to our lives today, is because we are prepared to understand that no snowflake ever falls in the wrong place!

Đây là quy tắc thứ tư, quy tắc cuối cùng: “Những gì đã qua, cho qua";

Quy tắc này rất đơn giản. Khi điều gì đó trong cuộc sống của chúng ta kết thúc, thì có nghĩa là nó đã giúp ích xong cho sự tiến hoá của chúng ta. Đó là lý do tại sao, để làm phong phú thêm trải nghiệm của mình, tốt hơn hết là chúng ta hãy buông bỏ và tiếp tục cuộc hành trình. Tôi nghĩ là không phải là tình cờ mà bạn đang đọc những dòng này. Nếu bài viết này đánh động tâm hồn bạn, đó là bởi vì bạn đáp ứng được những yêu cầu và hiểu rằng không một bông tuyết nào lại tình cờ rơi xuống sai chỗ cả!

Live Well, Love with all your being and is extremely happy!

Hãy đối xử tốt với chính bản thân bạn. Hãy yêu thương với tất cả tâm hồn bạn. Hãy luôn hạnh phúc.



http://ue.vnweblogs.com/gallery/18513/Bon_Nguyen_Tac_Tam_Linh_02.jpg



http://ue.vnweblogs.com/gallery/18513/Bon_Nguyen_Tac_Tam_Linh_03.jpg





http://ue.vnweblogs.com/gallery/18513/Bon_Nguyen_Tac_Tam_Linh_04.jpg

http://ue.vnweblogs.com/gallery/18513/Bon_Nguyen_Tac_Tam_Linh_05.jpg




http://ue.vnweblogs.com/gallery/18513/Bon_Nguyen_Tac_Tam_Linh_06.jpg

Belling the Cat - Treo chuông cho mèo

Belling the Cat

Once upon a time, all the mice met, together in council, to discuss the best means of securing themselves against the attacks of the cat.

After several suggestions had been debated, a Mouse of some standing and experience got up and said, "I think I have hit upon a plan which will ensure our safety in the future, provided you approve and carry it out. It is that we should fasten a bell around the neck of our enemy the cat, which will, by its tinkling, warn us of her approach."

This proposal was warmly applauded, and it had been decided to adopt it, when an old Mouse got upon his feet and said, "I agree with you all that the plan before us is an admirable one: but may I ask who is going to bell the cat?"

It is easy to propose impossible remedies.





The South China Sea Is the Future of Conflict Biển Đông – Tương lai của Xung đột


The South China Sea Is the Future of Conflict
Biển Đông – Tương lai của Xung đột
The 21st century's defining battleground is going to be on water.
BY ROBERT D. KAPLAN | SEPT/OCT 2011
Chiến trường quyết định của thế kỷ 21 sẽ là trên mặt nước.
Robert D. Kaplan - Tháng 9-10 năm 2011
Europe is a landscape; East Asia a seascape. Therein lies a crucial difference between the 20th and 21st centuries. The most contested areas of the globe in the last century lay on dry land in Europe, particularly in the flat expanse that rendered the eastern and western borders of Germany artificial and exposed to the inexorable march of armies. But over the span of the decades, the demographic and economic axis of the Earth has shifted measurably to the opposite end of Eurasia, where the spaces between major population centers are overwhelmingly maritime.
Châu Âu là một bức địa cảnh; Đông Á là một bức thủy cảnh. Trong đó ẩn chứa một sự khác biệt chủ yếu giữa hai thế kỷ 20 và 21. Những khu vực bị tranh chấp nhiều nhất trên thế giới trong thế kỷ vừa qua nằm trên đất liền khô cạn ở châu Âu, đặc biệt là trong sự mở rộng mặt bằng tạo nên những đường biên giới giả tạo ở phía đông và phía tây nước Đức và phơi ra cho cuộc hành quân bất lay chuyển của quân đội. Nhưng trong nhiều thập niên, trục nhân khẩu học và kinh tế của Trái Đất đã dịch chuyển đáng kể đến tận cùng bên kia của lục địa Âu – Á, nơi không gian giữa những trung tâm dân số lớn chủ yếu là biển.
Because of the way geography illuminates and sets priorities, these physical contours of East Asia augur a naval century -- naval being defined here in the broad sense to include both sea and air battle formations now that they have become increasingly inextricable. Why? China, which, especially now that its land borders are more secure than at any time since the height of the Qing dynasty at the end of the 18th century, is engaged in an undeniable naval expansion. It is through sea power that China will psychologically erase two centuries of foreign transgressions on its territory -- forcing every country around it to react.
Nhờ cách thức mà địa lý học giải thích và đặt ra các ưu tiên, những đường nét tự nhiên của Đông Á báo trước một thế kỷ hải quân – hải quân ở đây được xác định theo nghĩa rộng bao gồm cả các đội hình chiến đấu trên biển và trên không mà giờ đây đã trở nên ngày càng phức tạp. Tại sao? Trung Quốc, đặc biệt là hiện nay khi các đường biên giới trên bộ của nước này an toàn hơn so với bất cứ thời nào kể khi Nhà Thanh cực thịnh vào cuối thế kỷ 18, đang bận rộn trong việc mở rộng hải quân một cách không thể chối cãi. Chính nhờ sức mạnh trên biển mà Trung Quốc sẽ xóa bỏ về mặt tâm lý hai thế kỷ những tội ác của nước ngoài trên lãnh thổ của mình – buộc tất cả các nước xung quanh phải phản ứng.
Military engagements on land and at sea are vastly different, with major implications for the grand strategies needed to win -- or avoid -- them. Those on land enmesh civilian populations, in effect making human rights a signal element of war studies. Those at sea approach conflict as a clinical and technocratic affair, in effect reducing war to math, in marked contrast with the intellectual battles that helped define previous conflicts.
Giao chiến quân sự trên đất liền và trên biển rất khác biệt, có những tác động lớn đến các chiến lược lớn cần thiết để chiến thắng – hoặc né tránh – chúng. Giao chiến trên đất liền vướng víu dân thường, trên thực tế làm cho các quyền con người trở thành một yếu tố nổi bật của các nghiên cứu chiến tranh. Đánh nhau trên biển tiếp cận xung đột như một vấn đề lâm sàng và mang tính kỹ trị, trên thực tế giảm thiểu chiến tranh thành toán học, tương phản rõ rệt với các trận chiến trí tuệ vốn đã giúp định rõ các cuộc xung đột trước kia.
World War II was a moral struggle against fascism, the ideology responsible for the murder of tens of millions of noncombatants. The Cold War was a moral struggle against communism, an equally oppressive ideology by which the vast territories captured by the Red Army were ruled. The immediate post-Cold War period became a moral struggle against genocide in the Balkans and Central Africa, two places where ground warfare and crimes against humanity could not be separated. More recently, a moral struggle against radical Islam has drawn the United States deep into the mountainous confines of Afghanistan, where the humane treatment of millions of civilians is critical to the war's success. In all these efforts, war and foreign policy have become subjects not only for soldiers and diplomats, but for humanists and intellectuals. Indeed, counterinsurgency represents a culmination of sorts of the union between uniformed officers and human rights experts. This is the upshot of ground war evolving into total war in the modern age.
Thế chiến II là một cuộc đấu tranh đạo đức chống lại chủ nghĩa phát xít, hệ tư tưởng chịu trách nhiệm về cái chết của hàng chục triệu người không tham chiến. Chiến tranh Lạnh là một cuộc chiến đạo đức chống lại chủ nghĩa cộng sản, hệ tư tưởng áp bức tương tự đã cai trị các vùng lãnh thổ rộng lớn mà Hồng quân Liên Xô chiếm đoạt. Thời kỳ ngay sau Thế chiến II trở thành một cuộc chiến đạo lý chống lại tội diệt chủng ở vùng Balkan và Trung Phi, hai nơi mà chiến tranh trên đất liền và các tội ác chống loài người luôn song hành. Gần đây hơn, một cuộc chiến đạo đức chống lại Hồi giáo cực đoan đã lôi kéo Mỹ vào sâu các vùng đồi núi Afghanistan, nơi sự đối xử nhân đạo với hàng triệu dân thường có tính quyết định đối với thành công của cuộc chiến. Trong tất cả những nỗ lực ấy, chính sách ngoại giao và chiến tranh đã trở thành các đề tài không chỉ cho lính tráng và các nhà ngoại giao mà còn cho cả giới nghiên cứu nhân văn và trí thức. Quả thực, việc chống chiến tranh du kích thể hiện đỉnh cao của nhiều sự kết hợp giữa các sĩ quan quân phục và các chuyên gia nhân quyền. Đây là kết cục của loại chiến tranh trên bộ phát triển thành một cuộc chiến toàn diện ở thời hiện đại.
East Asia, or more precisely the Western Pacific, which is quickly becoming the world's new center of naval activity, presages a fundamentally different dynamic. It will likely produce relatively few moral dilemmas of the kind we have been used to in the 20th and early 21st centuries, with the remote possibility of land warfare on the Korean Peninsula as the striking exception. The Western Pacific will return military affairs to the narrow realm of defense experts. This is not merely because we are dealing with a naval realm, in which civilians are not present. It is also because of the nature of the states themselves in East Asia, which, like China, may be strongly authoritarian but in most cases are not tyrannical or deeply inhumane.
Đông Á, hay chính xác hơn là Tây Thái Bình Dương, nơi đang nhanh chóng trở thành tâm điểm mới của các hoạt động hải quân thế giới, báo trước một động lực hoàn toàn khác biệt về cơ bản. Nhiều khả năng khu vực này sẽ tạo ra một số cuộc chiến đạo đức mà chúng ta đã quen trong thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, với ngoại lệ là khả năng xa về một cuộc chiến trên bộ ở Bán đảo Triều Tiên. Tây Thái Bình Dương sẽ giao trả các vấn đề quân sự cho lĩnh vực chật hẹp của các chuyên gia quốc phòng. Điều này không phải chỉ bởi chúng ta đang đối phó một lĩnh vực hải quân, trong đó dân thường không hiện diện, mà còn bởi vì bản chất của chính các quốc gia ở Đông Á, như Trung Quốc chẳng hạn, có thể rất độc đoán nhưng trong hầu hết các trường hợp lại không bạo ngược hoặc độc ác cực điểm.
The struggle for primacy in the Western Pacific will not necessarily involve combat; much of what takes place will happen quietly and over the horizon in blank sea space, at a glacial tempo befitting the slow, steady accommodation to superior economic and military power that states have made throughout history. War is far from inevitable even if competition is a given. And if China and the United States manage the coming handoff successfully, Asia, and the world, will be a more secure, prosperous place. What could be more moral than that? Remember: It is realism in the service of the national interest -- whose goal is the avoidance of war -- that has saved lives over the span of history far more than humanitarian interventionism.
Cuộc đấu giành vị trí đứng đầu ở Tây Thái Bình Dương sẽ không nhất thiết phải dính đến chiến tranh; phần lớn những gì xảy ra sẽ xảy ra một cách êm ả và ở ngoài đường chân trời trên không phận biển trống vắng, ở một nhịp độ lạnh lùng phù hợp với sự điều chỉnh đều đặn, chậm rãi theo sức mạnh quân sự và kinh tế ưu việt hơn mà các nước đã tạo dựng được qua lịch sử. Chiến tranh còn lâu mới xảy ra ngay cả khi cạnh tranh là một sự định sẵn. Và nếu Trung Quốc và Mỹ giải quyết thành công cuộc bàn giao sắp tới thì châu Á và cả thế giới sẽ trở thành một nơi phồn thịnh, an toàn hơn. Còn điều gì đạo đức hơn thế? Hãy nhớ: Chính chủ nghĩa hiện thực phục vụ lợi ích quốc gia – mục đích là tránh chiến tranh – đã cứu sống nhiều nhân mạng trong suốt chiều dài lịch sử hơn so với chủ nghĩa can thiệp nhân đạo.
EAST ASIA IS A VAST, YAWNING EXPANSE stretching nearly from the Arctic to Antarctic -- from the Kuril Islands southward to New Zealand -- and characterized by a shattered array of isolated coastlines and far-flung archipelagos. Even accounting for how dramatically technology has compressed distance, the sea itself still acts as a barrier to aggression, at least to a degree that dry land does not. The sea, unlike land, creates clearly defined borders, giving it the potential to reduce conflict. Then there is speed to consider. Even the fastest warships travel comparatively slowly, 35 knots, say, reducing the chance of miscalculations and giving diplomats more hours -- days, even -- to reconsider decisions. Navies and air forces simply do not occupy territory the way that armies do. It is because of the seas around East Asia -- the center of global manufacturing as well as rising military purchases -- that the 21st century has a better chance than the 20th of avoiding great military conflagrations.
ĐÔNG Á LÀ MộT DảI RộNG LớN, trải dài gần như từ Bắc Cực tới Nam Cực – từ quần đảo Kuril về phía nam tới New Zealand – và có đặc điểm là một dãy đứt đoạn các bờ biển riêng biệt và các quần đảo trải rộng bao la. Ngay cả tính đến việc công nghệ đã rút ngắn khoảng cách hiệu quả đến thế nào thì vùng biển này tự nó vẫn đóng vai trò như một hàng rào ngăn xâm lược, ít nhất cũng ở một mức độ mà đất liền khô cạn không thể làm được. Không giống như đất liền, vùng biển này tạo thành các đường biên giới được định rõ, cho phép nó có khả năng làm giảm xung đột. Bên cạnh đó cần tính đến tốc độ. Ngay cả các tàu chiến nhanh nhất cũng di chuyển tương đối chậm chạp, 35 hải lý, làm giảm bớt cơ hội của tính toán sai và cho các nhà ngoại giao nhiều giờ hơn – thậm chí nhiều ngày hơn – để xem xét lại các quyết định. Các lực lượng hải quân và không quân đơn giản là không chiếm đóng lãnh thổ theo cách các quân đội vẫn làm. Chính nhờ các vùng biển xung quanh Đông Á – trung tâm sản xuất của thế giới cũng như số hợp đồng mua sắm quân sự ngày càng tăng – mà thế kỷ 21 có một cơ hội tốt hơn so với thế kỷ 20 trong việc tránh những cuộc xung đột quân sự lớn.
Of course, East Asia saw great military conflagrations in the 20th century, which the seas did not prevent: the Russo-Japanese War; the almost half-century of civil war in China that came with the slow collapse of the Qing dynasty; the various conquests of imperial Japan, followed by World War II in the Pacific; the Korean War; the wars in Cambodia and Laos; and the two in Vietnam involving the French and the Americans. The fact that the geography of East Asia is primarily maritime had little impact on such wars, which at their core were conflicts of national consolidation or liberation. But that age for the most part lies behind us. East Asian militaries, rather than focusing inward with low-tech armies, are focusing outward with high-tech navies and air forces.
Tất nhiên, Đông Á đã chứng kiến nhiều xung đột quân sự lớn trong thế kỷ 20 mà các vùng biển đã không ngăn chặn được: Chiến tranh Nga – Nhật; nội chiến gần nửa thế kỷ ở Trung Quốc xảy ra với sự sụp đổ từ từ của Nhà Thanh; nhiều cuộc chinh phạt của đế quốc Nhật, tiếp đến là Thế chiến II ở Thái Bình Dương; cuộc chiến Triều Tiên; các cuộc chiến ở Campuchia và Lào; và hai cuộc chiến ở Việt Nam liên quan tới Pháp và Mỹ. Thực tế địa lý Đông Á chủ yếu là biển đã có rất ít ảnh hưởng đến những cuộc chiến tranh mà tâm điểm của chúng là các xung đột về thống nhất hoặc giải phóng dân tộc. Nhưng thời đại ấy phần lớn nằm phía sau chúng ta. Các quân đội ở Đông Á, thay vì tập trung vào bên trong với các đội quân công nghệ thấp, nay đang hướng ra ngoài với các lực lượng hải quân và không quân công nghệ cao.
As for the comparison between China today and Germany on the eve of World War I that many make, it is flawed: Whereas Germany was primarily a land power, owing to the geography of Europe, China will be primarily a naval power, owing to the geography of East Asia.
Ví Trung Quốc ngày nay với nước Đức trước Thế Chiến I như nhiều người có thể so sánh thì không đúng. Trong khi Đức chủ yếu là một cường quốc đất liền, do địa thế của châu Âu, thì Trung Quốc sẽ là một cường quốc hải quân, do địa lý của Đông Á.
East Asia can be divided into two general areas: Northeast Asia, dominated by the Korean Peninsula, and Southeast Asia, dominated by the South China Sea. Northeast Asia pivots on the destiny of North Korea, an isolated, totalitarian state with dim prospects in a world governed by capitalism and electronic communication. Were North Korea to implode, Chinese, U.S., and South Korean ground forces might meet up on the peninsula's northern half in the mother of all humanitarian interventions, even as they carve out spheres of influence for themselves. Naval issues would be secondary. But an eventual reunification of Korea would soon bring naval issues to the fore, with a Greater Korea, China, and Japan in delicate equipoise, separated by the Sea of Japan and the Yellow and Bohai seas. Yet because North Korea still exists, the Cold War phase of Northeast Asian history is not entirely over, and land power may well come to dominate the news there before sea power will.
Đông Á có thể chia thành hai khu vực chung: Đông Bắc Á – bị chi phối bởi Bán đảo Triều Tiên, và Đông Nam Á, bị chi phối bởi Biển Đông. Đông Bắc Á xoay quanh vận mệnh Bắc Triều Tiên, một đất nước bị cô lập và chuyên chế với tương lai u mê trong một thế giới do chủ nghĩa tư bản và liên lạc điện tử chi phối. Nếu Bắc Triều Tiên nổ tung, các lực lượng trên bộ của Hàn Quốc, Mỹ và Trung Quốc có thể chạm trán nhau trên nửa bắc của Bán đảo trong khởi nguồn của mọi sự can thiệp nhân đạo, ngay cả khi họ chia ra các khu vực ảnh hưởng cho chính mình. Các lực lượng hải quân sẽ là thứ yếu. Nhưng một sự thống nhất sau cùng của Triều Tiên sẽ sớm đưa các lực lượng hải quân lên vị trí chỉ đạo, với một Triều Tiên thống nhất, Trung Quốc, và Nhật Bản trong sự cân bằng mong manh, cách nhau bởi Biển Nhật Bản, Hoàng Hải và Bột Hải. Tuy nhiên, do Bắc Triều Tiên vẫn tồn tại nên giai đoạn Chiến tranh Lạnh trong lịch sử Đông bắc Á vẫn chưa kết thúc hoàn toàn, và sức mạnh trên bộ có thể sẽ chi phối tin tức ở đó trước khi sức mạnh trên biển làm được điều này.
Southeast Asia, by contrast, is already deep into the post-Cold War phase of history. Vietnam, which dominates the western shore of the South China Sea, is a capitalist juggernaut despite its political system, seeking closer military ties to the United States. China, consolidated as a dynastic state by Mao Zedong after decades of chaos and made into the world's most dynamic economy by the liberalizations of Deng Xiaoping, is pressing outward with its navy to what it calls the "first island chain" in the Western Pacific.
Trái lại, Đông Nam Á đang chìm sâu vào giai đoạn hậu Chiến tranh Lạnh của lịch sử. Việt Nam, nước chiếm ưu thế trên bờ phía tây Biển Đông, là một sự tàn phá tư bản chủ nghĩa bất chấp hệ thống chính trị của nước này, đang tìm kiếm các mối quan hệ quân sự thân thiết hơn với Mỹ. Trung Quốc, thống nhất như một nhà nước của triều đại Mao Trạch Đông sau nhiều thập niên hỗn loạn và trở thành nền kinh tế năng động nhất thế giới nhờ những mở rộng tự do của Đặng Tiểu Bình, đang vươn ra bên ngoài bằng lực lượng hải quân tới những gì mà họ gọi là “chuỗi đảo đầu tiên” ở Tây Thái Bình Dương.
The Muslim behemoth of Indonesia, having endured and finally ended decades of military rule, is poised to emerge as a second India: a vibrant and stable democracy with the potential to project power by way of its growing economy. Singapore and Malaysia are also surging forward economically, in devotion to the city-state-cum-trading-state model and through varying blends of democracy and authoritarianism. The composite picture is of a cluster of states, which, with problems of domestic legitimacy and state-building behind them, are ready to advance their perceived territorial rights beyond their own shores. This outward collective push is located in the demographic cockpit of the globe, for it is in Southeast Asia, with its 615 million people, where China's 1.3 billion people converge with the Indian subcontinent's 1.5 billion people. And the geographical meeting place of these states, and their militaries, is maritime: the South China Sea.
Nước đông dân Hồi giáo Indonesia, đã phải chịu đựng và rút cục chấm dứt được nhiều chục năm quân đội cầm quyền, đang sẵn sàng nổi lên như một Ấn Độ thứ hai – một nền dân chủ năng động và ổn định với khả năng phóng sức mạnh theo cách nền kinh tế đang tăng trưởng của nước này. Singapore và Malaysia cũng đang nổi lên về kinh tế, đi theo mô hình nhà nước-thành phố-kết hợp-nhà nước-kinh doanh và thông qua những pha trộn khác nhau của dân chủ và độc tài. Bức tranh ghép đủ màu là một cụm các quốc gia, với những vấn đề về tính hợp pháp nội địa và xây dựng đất nước nằm đằng sau, đã sẵn sàng nâng cao nhận thức về các quyền lãnh thổ vượt ra ngoài bờ biển của họ. Sức đẩy chung ra phía ngoài nằm trong buồng lái nhân khẩu học của thế giới, vì nó nằm ở Đông Nam Á với 615 triệu dân, nơi 1,3 tỷ người của Trung Quốc tập trung cùng 1,5 tỷ người của tiểu lục địa Ấn Độ. Và nơi gặp gỡ địa lý của các quốc gia này, cùng quân đội của họ, là biển: Biển Đông.
The South China Sea joins the Southeast Asian states with the Western Pacific, functioning as the throat of global sea routes. Here is the center of maritime Eurasia, punctuated by the straits of Malacca, Sunda, Lombok, and Makassar. More than half the world's annual merchant fleet tonnage passes through these choke points, and a third of all maritime traffic. The oil transported through the Strait of Malacca from the Indian Ocean, en route to East Asia through the South China Sea, is more than six times the amount that passes through the Suez Canal and 17 times the amount that transits the Panama Canal. Roughly two-thirds of South Korea's energy supplies, nearly 60 percent of Japan's and Taiwan's energy supplies, and about 80 percent of China's crude-oil imports come through the South China Sea. What's more, the South China Sea has proven oil reserves of 7 billion barrels and an estimated 900 trillion cubic feet of natural gas, a potentially huge bounty.
Biển Đông nối các nước Đông Nam Á với Tây Thái Bình Dương, có chức năng như một yết hầu của các tuyến đường biển quốc tế. Đây là trung tâm hàng hải của của Âu-Á, được nhấn mạnh bằng các eo biển Malacca, Sunda, Lombok, và Makassar. Hơn nửa số lượng tàu buôn hàng năm của thế giới cùng một phần ba tất cả các hoạt động hàng hải phải chạy qua những điểm eo hẹp này. Dầu lửa được vận chuyển qua Eo biển Malacca từ Ấn Độ Dương, trên đường tới Đông Á qua Biển Đông, nhiều gấp 6 lần so với số lượng được chuyển qua Kênh đào Suez và 17 lần so với số lượng qua Kênh đào Panama. Xấp xỉ 2/3 các nguồn cung năng lượng của Hàn Quốc, gần 60% các nguồn cung năng lượng của Nhật Bản và Đài Loan, và khoảng 80% lượng dầu thô nhập khẩu của Trung Quốc đi qua Biển Đông. Không chỉ có thế, Biển Đông còn được chứng minh có các mỏ dầu 7 tỷ thùng và ước tính 900 nghìn tỷ feet khối khí tự nhiên, một phần thưởng rất lớn về tiềm năng.
It is not only location and energy reserves that promise to give the South China Sea critical geostrategic importance, but also the coldblooded territorial disputes that have long surrounded these waters. Several disputes concern the Spratly Islands, a mini-archipelago in the South China Sea's southeastern part. Vietnam, Taiwan, and China each claim all or most of the South China Sea, as well as all of the Spratly and Paracel island groups. In particular, Beijing asserts a historical line: It lays claim to the heart of the South China Sea in a grand loop (widely known as the "cow's tongue") from China's Hainan Island at the South China Sea's northern end all the way south 1,200 miles to near Singapore and Malaysia.
Không chỉ vị trí và dự trữ năng lượng hứa hẹn mang lại cho Biển Đông tầm quan trọng địa chiến lược then chốt mà cả những tranh cãi lãnh thổ từ lâu xung quanh vùng biển này. Một số tranh chấp liên quan tới Trường Sa, một quần đảo nhỏ ở phía đông nam Biển Đông. Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc mỗi bên đều tuyên bố chủ quyền ở tất cả hoặc hầu hết Biển Đông, cũng như tất cả các nhóm đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Đặc biệt, Bắc Kinh còn khẳng định một tuyến đường lịch sử: nước này đòi chủ quyền tận trung tâm của Biển Đông trong một đường cong lớn (được biết đến rộng rãi là đường lưỡi bò) từ đảo Hải Nam ở cực bắc của Biển Đông hướng về phía nam dài 1.200 dặm tới gần Singapore và Malaysia.
The result is that all nine states that touch the South China Sea are more or less arrayed against China and therefore dependent on the United States for diplomatic and military support. These conflicting claims are likely to become even more acute as Asia's spiraling energy demands -- energy consumption is expected to double by 2030, with China accounting for half that growth -- make the South China Sea the ever more central guarantor of the region's economic strength. Already, the South China Sea has increasingly become an armed camp, as the claimants build up and modernize their navies, even as the scramble for islands and reefs in recent decades is mostly over. China has so far confiscated 12 geographical features, Taiwan one, Vietnam 25, the Philippines eight, and Malaysia five.
Kết quả là cả 9 quốc gia dính đến Biển Đông đều ít nhiều dàn trận chống lại Trung Quốc, và vì thế dựa vào Mỹ về hỗ trợ ngoại giao và quân sự. Những tuyên bố xung đột đó nhiều khả năng sẽ còn kịch liệt hơn khi các nhu cầu về năng lượng tăng cao ở châu Á – mức tiêu thụ năng lượng được cho là tăng gấp đôi vào năm 2030, với Trung Quốc chiếm gần một nửa mức tăng đó – làm cho Biển Đông trở thành một sự bảo đảm quan trọng hơn bao giờ hết cho sức mạnh kinh tế của khu vực. Biển Đông đã trở thành một trại vũ trang, khi các bên tuyên bố chủ quyền xây dựng và hiện đại hóa hải quân của họ, kể cả khi tranh chấp biển đảo trong những thập niên gần đây hầu như đã chấm dứt. Đến nay, Trung Quốc đã chiếm 12 đặc điểm địa lý, Đài Loan chiếm 1, Việt Nam 25, Philippines 8 và Malaysia 5.
China's very geography orients it in the direction of the South China Sea. China looks south toward a basin of water formed, in clockwise direction, by Taiwan, the Philippines, the island of Borneo split between Malaysia and Indonesia (as well as tiny Brunei), the Malay Peninsula divided between Malaysia and Thailand, and the long snaking coastline of Vietnam: weak states all, compared with China. Like the Caribbean Sea, punctuated as it is by small island states and enveloped by a continental-sized United States, the South China Sea is an obvious arena for the projection of Chinese power.
Chính địa lý của Trung Quốc định hướng nước này theo hướng Biển Đông. Trung Quốc nhìn về phương nam hướng tới một lòng chảo nước được hình thành, theo chiều kim đồng hồ, bởi Đài Loan, Philippines, đảo Borneo chia tách giữa Malaysia và Indonesia (cả Brunei nhỏ bé), Bán đảo Malay phân chia giữa Thái Lan và Malaysia, và dải bờ biển dài như rắn lượn của Việt Nam: tất cả đều là các nước yếu, so với Trung Quốc. Giống như Biển Caribbe, được nhấn mạnh bởi các quốc đảo nhỏ và được bao quanh bởi nước Mỹ to như lục địa, Biển Đông rõ ràng là một vũ đài cho việc phóng tỏa quyền lực của Trung Quốc.
Indeed, China's position here is in many ways akin to America's position vis-à-vis the similar-sized Caribbean in the 19th and early 20th centuries. The United States recognized the presence and claims of European powers in the Caribbean, but sought to dominate the region nevertheless. It was the 1898 Spanish-American War and the digging of the Panama Canal from 1904 to 1914 that signified the United States' arrival as a world power. Domination of the greater Caribbean Basin, moreover, gave the United States effective control of the Western Hemisphere, which allowed it to affect the balance of power in the Eastern Hemisphere. And today China finds itself in a similar situation in the South China Sea, an antechamber of the Indian Ocean, where China also desires a naval presence to protect its Middle Eastern energy supplies.
Do vậy, vị trí của Trung Quốc ở đây theo nhiều cách rất giống với vị trí của Mỹ đối diện với Carribe rộng tương tự hồi thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Mỹ công nhận sự hiện diện và các tuyên bố của nhiều cường quốc châu Âu ở Caribbe nhưng vẫn tìm cách thống trị cả khu vực. Chính cuộc chiến Tây Ban Nha – Mỹ năm 1898 và việc đào kênh Panama từ năm 1904 tới 1914 đã báo hiệu sự xuất hiện của Mỹ như một cường quốc thế giới. Hơn nữa, sự thống trị vùng Caribbe rộng lớn hơn giúp Mỹ kiểm soát hiệu quả vùng Tây Bán Cầu, cho phép nước này gây ảnh hưởng đến cán cân quyền lực ở Đông Bán Cầu. Và ngày nay, Trung Quốc tự thấy mình trong tình thế tương tự ở Biển Đông, một phòng chờ của Ấn Độ Dương, nơi Trung Quốc cũng thèm khát một sự hiện diện của hải quân để bảo vệ các nguồn cung năng lượng của mình từ Trung Đông.
Yet something deeper and more emotional than geography propels China forward into the South China Sea and out into the Pacific: that is, China's own partial breakup by the Western powers in the relatively recent past, after having been for millennia a great power and world civilization.
Tuy nhiên, một thứ sâu sắc và cảm động hơn địa lý đang thúc đẩy Trung Quốc tiến vào Biển Đông và tiến ra Thái Bình Dương: đó là sự tan rã một phần của chính Trung Quốc bởi các cường quốc phương Tây trong quá khứ tương đối gần đây, sau khi đã trở thành một sức mạnh vĩ đại và một nền văn minh thế giới trong nhiều thiên niên kỷ.
In the 19th century, as the Qing dynasty became the sick man of East Asia, China lost much of its territory to Britain, France, Japan, and Russia. In the 20th century came the bloody Japanese takeovers of the Shandong Peninsula and Manchuria. This all came atop the humiliations forced on China by the extraterritoriality agreements of the 19th and early 20th centuries, whereby Western countries wrested control of parts of Chinese cities -- the so-called "treaty ports." By 1938, as Yale University historian Jonathan D. Spence tells us in The Search for Modern China, because of these depredations as well as the Chinese Civil War, there was even a latent fear that "China was about to be dismembered, that it would cease to exist as a nation, and that the four thousand years of its recorded history would come to a jolting end." China's urge for expansion is a declaration that it never again intends to let foreigners take advantage of it.
Trong thế kỷ 19, Nhà Thanh trở thành một kẻ bệnh tật của Đông Á. Trung Quốc mất rất nhiều lãnh thổ vào tay Anh, Pháp, Nhật và Nga. Thế kỷ 20 chứng kiến cuộc thôn tính đẫm máu của Nhật Bản đối với Bán đảo Sơn Đông và Mãn Châu. Tất cả những điều đó là sự nhục nhã đỉnh điểm ép buộc Trung Quốc bằng các thỏa thuận đặc quyền ngoại giao của thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, nhờ đó các nước phương Tây giành quyền kiểm soát nhiều phần của các thành phố Trung Quốc – được gọi là “các hải cảng mở cho thương mại nước ngoài”. Năm 1938, như sử gia Jonathan D. Spence của Đại học Yale, nói cho chúng ta biết trong cuốn “The Search for Modern China”, do những vụ cướp bóc này cùng với Cuộc Nội chiến Trung Quốc mà vẫn còn âm ỉ nỗi sợ rằng “Trung Quốc sắp bị chặt chân tay, khiến nước này không thể tồn tại như một quốc gia, và rằng lịch sử 4000 năm được ghi lại của họ sẽ tiến tới một hồi kết điếng người”. Việc Trung Qôốc hối hả mở rộng là một lời tuyên bố rằng nước này sẽ không bao giờ để cho người ngoài lợi dụng một lần nữa.
JUST AS GERMAN SOIL constituted the military front line of the Cold War, the waters of the South China Sea may constitute the military front line of the coming decades. As China's navy becomes stronger and as China's claim on the South China Sea contradicts those of other littoral states, these other states will be forced to further develop their naval capacities. They will also balance against China by relying increasingly on the U.S. Navy, whose strength has probably peaked in relative terms, even as it must divert considerable resources to the Middle East. Worldwide multipolarity is already a feature of diplomacy and economics, but the South China Sea could show us what multipolarity in a military sense actually looks like.
Giống như lãnh thổ Đức tạo nên mặt trận quân sự tiền phương của Chiến tranh Lạnh, các vùng nước ở Biển Đông có thể hình thành một mặt trận quân sự tiền phương cho những thập niên sắp tới. Khi Hải quân Trung Quốc trở nên mạnh mẽ hơn, và khi những đòi hỏi của Trung Quốc ở Biển Đông trái ngược với những tuyên bố của các nước ven biển khác, các nước này sẽ buộc phải phát triển hơn nữa các khả năng hải quân của mình. Họ cũng sẽ cân bằng trước Trung Quốc bằng cách tăng cường dựa vào Hải quân Mỹ, lực lượng có sức mạnh đã đạt đến đỉnh cao trong các điều kiện tương đối, ngay cả khi phải chuyển hướng các nguồn lực lớn tới Trung Đông. Đa cực khắp thế giới đã là một đặc điểm của ngoại giao và kinh tế, nhưng Biển Đông có thể cho chúng ta thấy đa cực thực sự sẽ như thế nào theo nghĩa quân sự.
There is nothing romantic about this new front, void as it is of moral struggles. In naval conflicts, unless there is shelling onshore, there are no victims per se; nor is there a philosophical enemy to confront. Nothing on the scale of ethnic cleansing is likely to occur in this new central theater of conflict. China, its suffering dissidents notwithstanding, simply does not measure up as an object of moral fury. The Chinese regime demonstrates only a low-calorie version of authoritarianism, with a capitalist economy and little governing ideology to speak of. Moreover, China is likely to become more open rather than closed as a society in future years. Instead of fascism or militarism, China, along with other states in East Asia, is increasingly defined by the persistence of old-fashioned nationalism: an idea, certainly, but not one that since the mid-19th century has been attractive to intellectuals. And even if China does become more democratic, its nationalism is likely only to increase, as even a casual survey of the views of its relatively freewheeling netizens makes clear.
Chẳng có gì lãng mạn về mặt trận mới này, cũng không có nghĩa như các cuộc chiến đấu đạo đức. Trong các cuộc xung đột hải quân, nếu không có pháo kích trên bờ thì tự nó không có nạn nhân; cũng không có một kẻ thù can đảm để mà đối đầu. Chẳng có gì ở quy mô thanh trừng sắc tộc có khả năng xảy ra ở chiến trường trung tâm mới của xung đột. Trung Quốc, tuy những người bất đồng chính kiến vẫn phải chịu đựng, đơn giản là không đến độ là mục tiêu của cơn thịnh nộ đạo đức. Chế độ Trung Quốc chỉ thể hiện một phiên bản hàm lượng calo thấp của chủ nghĩa độc đoán, với một nền kinh tế tư bản và một chút ý thức hệ chủ đạo để mà nói đến. Hơn nữa, Trung Quốc nhiều khả năng sẽ trở thành một xã hội cởi mở hơn chứ không khép lại trong những năm tới. Thay vì chủ nghĩa phát xít hay chủ nghĩa quân phiệt, Trung Quốc – cùng với các nước khác ở Đông Á – đang ngày càng được xác định bởi sự tồn tại của chủ nghĩa dân tộc kiểu cũ: một ý tưởng, chắc chắn vậy, nhưng không phải là loại hấp dẫn giới trí thức từ giữa thế kỷ 19. Và ngay cả nếu Trung Quốc có trở nên dân chủ hơn thì chủ nghĩa dân tộc của họ cũng chỉ có khả năng tăng lên, như được tỏ rõ trong một cuộc khảo sát ngẫu nhiên về quan điểm của các cư dân mạng khá tự do của nước này.
We often think of nationalism as a reactionary sentiment, a relic of the 19th century. Yet it is traditional nationalism that mainly drives politics in Asia, and will continue to do so. That nationalism is leading unapologetically to the growth of militaries in the region -- navies and air forces especially -- to defend sovereignty and make claims for disputed natural resources. There is no philosophical allure here. It is all about the cold logic of the balance of power. To the degree that unsentimental realism, which is allied with nationalism, has a geographical home, it is the South China Sea.
Chúng ta thường nghĩ về chủ nghĩa dân tộc như một tình cảm phản động, một di vật của thế kỷ 19. Tuy nhiên, chính chủ nghĩa dân tộc truyền thống đã thúc đẩy chính trị ở châu Á, và sẽ tiếp tục làm như thế. Chủ nghĩ dân tộc ấy dang dẫn dắt một cách không cần biện giải tới sự lớn mạnh của quân đội các nước trong khu vực – đặc biệt là hải quân và không quân – để bảo vệ chủ quyền và tuyên bố chủ quyền đối với các nguồn tài nguyên tranh chấp. Không có sự quyến rũ triết lý ở đây. Tất cả là về một logic lạnh lùng của cán cân quyền lực. Đến mức độ đó, chủ nghĩa hiện thực vô cảm, vốn liên kết với chủ nghĩa dân tộc, có một ngôi nhà địa lý, đó là Biển Đông.
Whatever moral drama does occur in East Asia will thus take the form of austere power politics of the sort that leaves many intellectuals and journalists numb. As Thucydides put it so memorably in his telling of the ancient Athenians' subjugation of the island of Melos, "The strong do what they can and the weak suffer what they must." In the 21st-century retelling, with China in Athens's role as the preeminent regional sea power, the weak will still submit -- but that's it. This will be China's undeclared strategy, and the smaller countries of Southeast Asia may well bandwagon with the United States to avoid the Melians' fate. But slaughter there will be not.
Bất cứ thảm kịch đạo đức nào xảy ra ở Đông Á đều sẽ mang hình thức chính trị quyền lực khắc khổ của loại khiến rất nhiều trí thức và nhà báo tê liệt. Như Thucydides đã giải thích rất đáng nhớ trong câu chuyện ông kể về cuộc chinh phạt đảo Melos của người Athens cổ đại. “Kẻ mạnh làm những gì họ có thể và kẻ yếu chịu đựng những gì họ phải chịu”. Trong câu chuyện kể lại của thế kỷ 21, với Trung Quốc trong vai trò của người Athen như một cường quốc biển vượt trội trong khu vực, kẻ yếu vẫn phải cam chịu – nhưng chỉ thế thôi. Đây sẽ là chiến lược im ỉm của Trung Quốc và các nước nhỏ hơn ở Đông Nam Á có thể liên kết với Mỹ để tránh số phận của người Melo. Nhưng sẽ không có tàn sát ở đó.
The South China Sea presages a different form of conflict than the ones to which we have become accustomed. Since the beginning of the 20th century, we have been traumatized by massive, conventional land engagements on the one hand, and dirty, irregular small wars on the other. Because both kinds of war produced massive civilian casualties, war has been a subject for humanists as well as generals. But in the future we just might see a purer form of conflict, limited to the naval realm. This is a positive scenario. Conflict cannot be eliminated from the human condition altogether. A theme in Machiavelli's Discourses on Livy is that conflict, properly controlled, is more likely than rigid stability to lead to human progress. A sea crowded with warships does not contradict an era of great promise for Asia. Insecurity often breeds dynamism.
Biển Đông báo trước một hình thức xung đột khác so với những cuộc xung đột mà chúng ta từng biết đến. Từ đầu thế kỷ 20, chúng ta đã bị tổn thương bởi một mặt là những trận chiến lớn theo lối cổ truyền trên bộ, mặt khác là những cuộc chiến nhỏ bẩn thỉu và bất thường. Vì cả hai loại chiến tranh này đều gây thương vong lớn cho dân thường nên chiến tranh đã trở thành một chủ đề cho những người theo chủ nghĩa nhân văn cùng các tướng lĩnh. Nhưng trong tương lai, chúng ta chỉ có thể chứng kiến một hình thức thuần túy hơn của xung đột, giới hạn trong lĩnh vực hải quân. Đây là một viễn cảnh tích cực. Xung đột không thể bị loại bỏ hoàn toàn khỏi thân phận con người. Một chủ đề trong “Các luận đàm về Livy” của Machiavelli là xung đột đó, nếu được kiểm soát đúng đắn, sẽ có khả năng dẫn đến tiến bộ của loài người hơn so với sự ổn định cứng nhắc. Một vùng biển đầy tàu chiến không mâu thuẫn với một kỷ nguyên tràn đầy hứa hẹn cho châu Á. Sự bất an thường nuôi dưỡng động lực.
But can conflict in the South China Sea be properly controlled? My argument thus far presupposes that major warfare will not break out in the area and that instead countries will be content to jockey for position with their warships on the high seas, while making competing claims for natural resources and perhaps even agreeing to a fair distribution of them. But what if China were, against all evidential trends, to invade Taiwan? What if China and Vietnam, whose intense rivalry reaches far back into history, go to war as they did in 1979, with more lethal weaponry this time? For it isn't just China that is dramatically building its military; Southeast Asian countries are as well. Their defense budgets have increased by about a third in the past decade, even as European defense budgets have declined. Arms imports to Indonesia, Singapore, and Malaysia have gone up 84 percent, 146 percent, and 722 percent, respectively, since 2000. The spending is on naval and air platforms: surface warships, submarines with advanced missile systems, and long-range fighter jets. Vietnam recently spent $2 billion on six state-of-the-art Kilo-class Russian submarines and $1 billion on Russian fighter jets. Malaysia just opened a submarine base on Borneo. While the United States has been distracted by land wars in the greater Middle East, military power has been quietly shifting from Europe to Asia.
Nhưng liệu xung đột ở Biển Đông có thể kiểm soát một cách đúng đắn không? Đến đây, lập luận của tôi cho rằng một cuộc chiến tranh lớn sẽ không nổ ra trong khu vực và thay vào dó, các nước sẽ bằng lòng để khôn khéo giành ưu thế với các tàu chiến của họ ở các vùng biển cả, trong khi vẫn đưa ra các tuyên bố cạnh tranh các nguồn tài nguyên thiên nhiên và có lẽ còn đồng ý phân chia chúng một cách công bằng. Nhưng ra sao nếu Trung Quốc, đi ngược lại mọi xu hướng dựa trên bằng chứng, xâm lược Đài Loan? Thế nào nếu Trung Quốc và Việt Nam, hai nước hiện đang cạnh tranh gay gắt bắt nguồn từ sâu trong lịch sử, xảy ra chiến tranh như hồi năm 1979, với nhiều vũ khí gây chết người hơn thời nay? Vì không chỉ một mình Trung Quốc đang xây dựng mạnh mẽ quân đội của mình, các nước Đông Nam Á cũng thế. Ngân sách quốc phòng của họ tăng lên khoảng 1/3 trong thập niên qua, ngay cả khi ngân sách quốc phòng của các nước châu Âu đã giảm bớt. Nhập khẩu vũ khí vào Indonesia, Singapore, và Malaysia lần lượt tăng 84%, 146%, và 722% kể từ năm 2000. Chi tiêu đều dành cho các nền tảng của hải quân và không quân: chiến hạm trên mặt nước, tàu ngầm với các hệ thống tên lửa tân tiến, và các phi cơ chiến đấu tầm xa. Mới đây, Việt Nam đã chi 2 tỷ USD mua 6 tàu ngầm hạng Kilo tối tân và 1 tỷ USD mua các chiến đấu cơ của Nga. Malaysia vừa mở một căn cứ tàu ngầm trên đảo Borneo. Mặc dù Mỹ bị phân tâm bởi các cuộc chiến trên bộ ở Trung Đông, sức mạnh quân sự của nước này vẫn đang lặng lẽ dịch chuyển từ châu Âu đến châu Á.
The United States presently guarantees the uneasy status quo in the South China Sea, limiting China's aggression mainly to its maps and serving as a check on China's diplomats and navy (though this is not to say that America is pure in its actions and China automatically the villain). What the United States provides to the countries of the South China Sea region is less the fact of its democratic virtue than the fact of its raw muscle. It is the very balance of power between the United States and China that ultimately keeps Vietnam, Taiwan, the Philippines, Indonesia, Singapore, and Malaysia free, able to play one great power off against the other. And within that space of freedom, regionalism can emerge as a power in its own right, in the form of the Association of Southeast Asian Nations (ASEAN). Yet, such freedom cannot be taken for granted. For the tense, ongoing standoff between the United States and China -- which extends to a complex array of topics from trade to currency reform to cybersecurity to intelligence surveillance -- threatens eventually to shift in China's favor in East Asia, largely due to China's geographical centrality to the region.
Mỹ hiện thời đang bảo đảm cho hiện trạng không yên ở Biển Đông, hạn chế sự xâm lược của Trung Quốc chủ yếu trên các bản đồ và giữ vai trò như một sự kiểm tra đối với các nhà ngoại giao và hải quân của Trung Quốc (nhưng điều này không phải để nói rằng Mỹ trong sáng trong các hành động của mình còn Trung Quốc tự là kẻ ác). Những gì Mỹ mang đến cho các nước trong khu vực Biển Đông không nhiều thực tế về lòng tốt dân chủ bằng sự thật về sức mạnh cơ bắp của nước này. Chính sự cân bằng quyền lực giữa Mỹ và Trung Quốc rụt cục sẽ giữ cho Việt Nam, Đài Loan, Philippines, Indonesia, Singapore và Malaysia được tự do, có thể kích bẩy cường quốc này chống lại cường quốc kia. Và trong không gian tự do đó, chủ nghĩa khu vực có thể nổi lên như một sức mạnh của chính nó, dưới hình thức ASEAN. Tuy nhiên, loại tự do như vậy không tự nhiên mà có. Vì sự bế tắc căng thẳng đang diễn ra giữa Mỹ và Trung Quốc – vốn mở rộng thành một loạt các chủ đề phức tạp từ thương mại, cải cách tiền tệ, an ninh mạng đến giám sát tình báo – các mối đe dọa rút cục sẽ làm thay đổi thiện cảm của Trung Quốc ở Đông Á, chủ yếu là do trung tâm địa lý của Trung Quốc đối với khu vực.
THE MOST COMPREHENSIVE SUMMATION of the new Asian geopolitical landscape has come not from Washington or Beijing, but from Canberra. In a 74-page article published last year, "Power Shift: Australia's Future Between Washington and Beijing," Hugh White, professor of strategic studies at the Australian National University, describes his country as the quintessential "status quo" power -- one that desperately wants the situation in Asia to remain exactly as it is, with China continuing to grow so that Australia can trade more and more with it, while America remains "the strongest power in Asia," so as to be Australia's "ultimate protector." But as White writes, the problem is that both of these things cannot go on. Asia cannot continue to change economically without changing politically and strategically; a Chinese economic behemoth naturally will not be content with American military primacy in Asia.
Tổng kết toàn diện nhất của cảnh quan địa chính trị châu Á không đến từ Bắc Kinh hay Washington mà từ Canberra. Trong một bài viết dài 74 trang được xuất bản năm ngoái, “Dịch chuyển quyền lực: Tương lai của Australia giữa Washington và Bắc Kinh”, tác giả Hugh White, giáo sư nghiên cứu chiến lược tại Đại học quốc gia Australia, mô tả đất nước ông là một cường quốc “nguyên trạng” tinh hoa – một nước đang hết sức muốn tình hình ở châu Á duy trì đúng như hiện nay, với Trung Quốc tiếp tục phát triển để Australia có thể buôn bán ngày càng nhiều hơn với nước này, trong khi Mỹ vẫn là “quyền lực mạnh nhất ở châu Á” để luôn là “người bảo vệ tối thượng” của Australia. Tuy nhiên, như White viết, vấn đề là cả hai điều này đều không thể diễn ra. Châu Á không thể tiếp tục thay đổi về kinh tế mà không thay đổi về chính trị và chiến lược; một nền kinh tế khổng lồ Trung Quốc tất nhiên sẽ không hài lòng với vị thế đứng đầu quân sự của Mỹ ở châu Á.
What does China want? White posits that the Chinese may desire in Asia the kind of new-style empire that the United States engineered in the Western Hemisphere once Washington had secured dominance over the Caribbean Basin (as Beijing hopes it will over the South China Sea). This new-style empire, in White's words, meant America's neighbors were "more or less free to run their own countries," even as Washington insisted that its views be given "full consideration" and take precedence over those of outside powers. The problem with this model is Japan, which would probably not accept Chinese hegemony, however soft. That leaves the Concert of Europe model, in which China, India, Japan, the United States, and perhaps one or two others would sit down at the table of Asian power as equals. But would the United States accept such a modest role, since it has associated Asian prosperity and stability with its own primacy? White suggests that in the face of rising Chinese power, American dominance might henceforth mean instability for Asia.
Vậy Trung Quốc muốn gì? Giáo sư White cho rằng, Trung Quốc có thể mong muốn một loại đế chế kiểu mới ở châu Á mà Mỹ đã xây dựng ở Tây Bán cầu ngay khi Washington đảm bảo sự thống trị đối với Lòng chảo Caribbe (như Bắc Kinh hy vọng sẽ thống trị Biển Đông). Đế chế kiểu mới này, theo diễn giải của White, có nghĩa là các nước láng giềng của Mỹ “ít hay nhiều sẽ tự do điều hành đất nước của chính họ”, ngay cả khi Washington có khẳng định rằng các quan điểm của nước này sẽ được “xem xét toàn diện” và được ưu tiên so với những quan điểm của các cường quốc bên ngoài. Vấn đề với mô hình này là Nhật Bản, nước có thể sẽ không chấp nhận sự bá chủ của Trung Quốc, dù là mềm mỏng. Điều đó khiến Bản hòa tấu mô hình châu Âu, trong đó Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Mỹ, và có lẽ một hoặc hai nước khác nữa ngồi xuống bàn thương lượng về sức mạnh châu Á ngang bằng nhau. Nhưng liệu Mỹ có chấp nhận một vai trò khiêm tốn như vậy vì nước này đã gắn kết sự thịnh vượng và ổn định của châu Á với sự ưu việt của chính mình? Giáo sư White cho rằng, trong khi đối diện với sức mạnh đang lên của Trung Quốc, sự thống trị của Mỹ từ nay trở về sau có thể lại có nghĩa là bất ổn cho châu Á.
American dominance is predicated on the notion that because China is authoritarian at home, it will act "unacceptably abroad." But that may not be so, White argues. China's conception of itself is that of a benign, non-hegemonic power, one that does not interfere in the domestic philosophies of other states in the way the United States -- with its busybody morality -- does. Because China sees itself as the Middle Kingdom, its basis of dominance is its own inherent centrality to world history, rather than any system it seeks to export.
Sự thống trị của Mỹ được khẳng định dựa trên khái niệm rằng vì Trung Quốc là một chế độ độc đoán trong nước nên họ sẽ hành động “không thể chấp nhận được ở nước ngoài”. Nhưng có thể không phải như vậy, White lập luận. Quan niệm về mình của Trung Quốc là quan niệm của một cường quốc ôn hòa không bá quyền, một nước không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác theo cách mà Mỹ – với giáo lý của kẻ bao biện – vẫn làm. Bởi vì Trung Quốc tự nhận mình là một Vương quốc Trung dung, với nền tảng thống trị của họ là vị trí trung tâm vốn có của nước này với lịch sử thế giới, chứ không phải bất kỳ một hệ thống nào mà họ tìm cách xuất khẩu.
In other words, the United States, not China, might be the problem in the future. We may actually care too much about the internal nature of the Chinese regime and seek to limit China's power abroad because we do not like its domestic policies. Instead, America's aim in Asia should be balance, not dominance. It is precisely because hard power is still the key to international relations that we must make room for a rising China. The United States need not increase its naval power in the Western Pacific, but it cannot afford to substantially decrease it.
Nói cách khác, Mỹ, chứ không phải Trung Quốc, có thể là vấn đề trong tương lai. Chúng ta có thể thực sự quan tâm quá nhiều đến bản chất nội bộ của chính quyền Trung Quốc và tìm cách hạn chế sức mạnh của Trung Quốc ở nước ngoài bởi vì chúng ta không thích các chính sách trong nước của họ. Thay vào đó, mục tiêu của Mỹ ở châu Á nên là sự cân bằng, chứ không phải thống trị. Chính xác là bởi vì quyền lực cứng vẫn là chìa khóa cho các mối quan hệ quốc tế và chúng ta phải nhường chỗ cho một Trung Quốc đang lên. Mỹ không cần tăng sức mạnh hải quân của mình ở Tây Thái Bình Dương nhưng thực chất cũng không thể giảm bớt lực lượng này.
The loss of a U.S. aircraft carrier strike group in the Western Pacific due to budget cuts or a redeployment to the Middle East could cause intense discussions in the region about American decline and the consequent need to make amends and side deals with Beijing. The optimal situation is a U.S. air and naval presence at more or less the current level, even as the United States does all in its power to forge cordial and predictable ties with China. That way America can adjust over time to a Chinese blue-water navy. In international affairs, behind all questions of morality lie questions of power. Humanitarian intervention in the Balkans was possible only because the Serbian regime was weak, unlike the Russian regime, which was committing atrocities of a similar scale in Chechnya while the West did nothing. In the Western Pacific in the coming decades, morality may mean giving up some of our most cherished ideals for the sake of stability. How else are we to make room for a quasi-authoritarian China as its military expands? The balance of power itself, even more than the democratic values of the West, is often the best safeguard of freedom. That, too, will be a lesson of the South China Sea in the 21st century -- another one that idealists do not want to hear.
Việc mất đi một đội hàng không mẫu hạm Mỹ ở Tây Thái Bình Dương do cắt giảm ngân sách hoặc do tái bố trí đến Trung Đông có thể gây ra những cuộc thảo luận căng thẳng trong khu vực về sự suy giảm của Mỹ và hậu quả cần phải thực hiện những sửa đổi và các thỏa thuận với Bắc Kinh. Hoàn cảnh tốt nhất là sự hiện diện của hải quân và không quân Mỹ ở một mức độ nhiều hơn hoặc ít hơn hiện nay, ngay cả khi Mỹ phải dùng mọi sức mạnh của mình để xây dựng các mối quan hệ thất thiết và có thể dự báo trước với Trung Quốc. Bằng cách đó, Mỹ có thể điều chỉnh theo thời gian với một lực lượng hải quân viễn dương Trung Quốc. Trong các vấn đề quốc tế, đằng sau mọi câu hỏi về đạo đức đều ẩn chứa vấn đề quyền lực. Sự can thiệp nhân đạo tại vùng Balkan chỉ có thể bởi vì chế độ Serbia quá yếu, không giống như chính quyền Nga phạm các tội ác với quy mô tương tự ở Chechnya nhưng phương Tây không có hành động gì. Ở Tây Thái Bình Dương trong những thập niên tới đây, đạo đức có thể có nghĩa là từ bỏ một số các ý tưởng thân thương nhất của chúng ta vì lợi ích của sự ổn định. Chúng ta sẽ thế nào để tạo chỗ trống cho một Trung Quốc gần như độc tài khi quân đội nước này mở rộng? Bản thân sự cân bằng quyền lực, thậm chí nhiều hơn các giá trị dân chủ của phương Tây, thường là sự bảo vệ tốt nhất cho tự do. Đó cũng sẽ là một bài học của Biển Đông trong thế kỷ 21 – một bài học khác mà những người hay lý tưởng hóa không muốn nghe.
Robert D. Kaplan is senior fellow at the Center for a New American Security, national correspondent for the Atlantic, and a member of the U.S. Defense Department's Defense Policy Board. He is the author of Monsoon: The Indian Ocean and the Future of American Power.
Robert D. Kaplan là một chuyên viên cấp cao của Trung tâm vì một An ninh Mỹ mới, nhà báo quốc gia của tờ The Atlantic, và một thành viên của Hội đồng Chính sách Quốc phòng thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ. Ông là tác giả cuốn Monsoon: The Indian Ocean and the Future of American Power (Gió mùa: Ấn độ dương và tương lại quyền lực Mỹ)

Người dịch: Trúc An




Bordered by ten nations and including some of the world's most important shipping lanes and fisheries, the South China Sea is a vital region. Critically important mineral resources, including oil, are thought to be there in large quantities as well. The Chinese have long laid claim to nearly the entire South China Sea. That claim is contested by many nations and in some instances the conflict has turned violent. This summer the United States entered the fray.
Tiếp giáp mười quốc gia và bao gồm một số tuyến đường biển quan trọng nhất trên thế giới nhiều thủy sản, biển Đông là một khu vực quan trọng. Tài nguyên khoáng sản quan trọng, bao gồm dầu, được cho là được trữ lượng lớn. Trung Quốc từ lâu đã tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ Biển Nam Trung Hoa (Biển Đông). Tuyên bố đó gây tranh chấp với nhiều quốc gia trong một số trường hợp xung đột đã trở thành bạo lực. Mùa hè này, Hoa Kỳ bước vào cuộc cạnh tranh.
In July, U.S. Secretary of State Hillary Clinton said, "The United States has a national interest in freedom of navigation, open access to Asia's maritime commons, and respect for international law in the South China Sea." This comment, made at a meeting of the Association of Southeast Asian Nations' (ASEAN) regional forum held in Hanoi, triggered a vigorous response from Chinese authorities.
Trong tháng Bảy, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton cho biết, "Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia tự do hàng hải, tự do tiếp cận khu vực hàng hải chung của Châu Á, tôn trọng luật pháp quốc tế biển Đông." Nhận định này, được đưa ra tại một cuộc họp của diễn đàn khu vực của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được tổ chức tại Hà Nội, gây ra một phản ứng mạnh mẽ từ chính quyền Trung Quốc.
Chinese authorities argue that they and other nations in the region can work out their differences on a bilateral, nation to nation basis. They say that the U.S. is intruding into the discussion and attempting to make rights and use of the South China Sea an international issue. As Chinese Foreign Minister Yang Jiechi put it, "What will be the consequences to if this issue is turned into an international or multilateral one? It will only make matters worse and the resolution more difficult."
Chính quyền Trung Quốc lập luận rằng họ và các quốc gia khác trong khu vực có thể làm việc để giải quyết các khác biệt dựa trên cơ sở song phương giữa cá quốc gia. Họ nói rằng Mỹ đang xâm nhập vào các cuộc thảo luận và cố gắng để thực hiện quyền lợi và sử dụng Biển Đông như là một vấn đề quốc tế. Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì nói, "Nếu vấn đề này là trở thành quốc tế hóa hoặc đa phương hóa thì hậu quả sẽ chỉ làm cho vấn đề tồi tệ hơn và khó giải quyết hơn."
This new documentary from the USC. U.S.-China Institute looks at the issue and includes interviews with distinguished Chinese and American specialists including Shen Dingli (Center for American Studies, Fudan University), Xie Tao (Beijing Foreign Studies University), Bonnie Glaser (Center for Strategic and International Studies), Daniel Lynch (USC). USCI senior fellow Mike Chinoy reports the story. USCI multimedia editor Craig Stubing handled the camerawork and editing. We look forward to your comments. Please send them to us at uschina@usc.edu.
Phim tài liệu mới này từ USC, Viện nghiên cứu Mỹ-Trung, xem xét vấn đề này và tiến hành các cuộc phỏng vấn với các chuyên gia có tiếng của Trung Quốc và Mỹ bao gồm Shen Dingli (Trung tâm Nghiên cứu Hoa Kỳ, Đại học Fudan), Xie Tao (Đại học nghiên cứu nước ngoài Bắc Kinh), Bonnie Glaser (Trung tâm Chiến lược và Nghiên cứu Quốc tế), Daniel Lynch (USC). chuyên viên cao cấp của USCI, Mike Chinoy tường trình câu chuyện. Biên tập viên đa phương tiện của USCI, Craig Stubing, xử lý và chỉnh sửa phần hình ảnh camera. Chúng tôi mong muốn bình luận của bạn. Xin vui lòng gửi cho chúng tôi tại uschina@usc.edu.
OFFICIAL WEBSITE:
http://www.china.usc.edu

Website chính thức:
http://www.china.usc.edu